Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Trung Lập”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 8:
Tháng 3 năm 1915, Việt Nam Quang phục Hội chủ trương đánh úp [[Móng Cái]], Lạng Sơn, [[Hà Khẩu]] với ba đường do [[Nguyễn Mạnh Hiếu]], [[Nguyễn Thượng Hiền]] và [[Hoàng Trọng Mậu]] chỉ huy. Do bất đồng nội bộ nên cuối cùng, chỉ mỗi lực lượng của Hoàng Trọng Mậu tiến hành [[Trận Tà Lùng|cuộc tấn công đồn Tà Lùng]] thuộc châu Đà Long (nay thuộc thị trấn [[Tà Lùng]], huyện [[Phục Hòa]], tỉnh [[Cao Bằng]]), dự định chiếm lĩnh và lập căn cứ trên đất Việt sửa soạn cho cuộc tổng khởi nghĩa.<ref name="Xuân Lâm p 1">Đinh Xuân Lâm (chủ biên), ''Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 1'', Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2007, trang 196.</ref>
 
Đêm 12, rạng ngày [[13 tháng 3]] năm 1915, Trần Trung Lập tham gia đoàn nghĩa quân Quang phục Hội do [[Hoàng Trọng Mậu]] và [[Đinh Hồng Việt]] chỉ huy, xuất phát từ Long Châu ([[Quảng Tây]], [[Trung Quốc]]), vượt biên giới, tập kích [[Trận Tà Lùng|đánh vào đồn Tà Lùng]]. Cùng đi trong đoàn quân này có nhà cách mạng [[Vũ Hải Thu]], lãnh tụ tương lai của tổ chức [[ViệcViệt Cách]] sau này. Tuy nhiên, cuộc tập kích chỉ một giờ sau đó khi không công phá được đồn và lực lượng tiếp viện của quân Pháp kéo đến. Sau hơn một giờ giao tranh mà không phá được, nghĩa quân phải rút lui về Trung Quốc khi trời dần sáng. Không lâu sau, các thủ lĩnh [[Hoàng Trọng Mậu]] và [[Đinh Hồng Việt]] cũng bị thực dân Pháp bắt được và xử tử. Lực lượng Quang phục quân tan rã, nhiều chí sĩ, nghĩa quân bị bắt giam, tù đày.
 
Tháng 8 năm 1917, ông cùng với một số thành viên Quang phục Hội, bắt liên lạc với [[Lương Ngọc Quyến]], chuẩn bị cho [[Khởi nghĩa Thái Nguyên]]. Đêm [[30 tháng 8]] năm 1917, khởi nghĩa nổ ra. Nghĩa quân nhanh chóng chiếm được thành Thái Nguyên và làm chủ toàn tỉnh lỵ, truyền hịch kêu gọi các nơi hưởng ứng nổi dậy cùng ngoại viện từ bên Trung Quốc và Nhật đến vì tin rằng Việt Nam Quang phục Hội có lực lượng đợi sẵn để trợ lực. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa cũng tuyên bố độc lập, lấy quốc hiệu là "Đại Hùng", cho trương cờ Ngũ tinh liên châu của Việt Nam Quang phục Hội trên cửa thành. Tuy nhiên, đến ngày [[2 tháng 9]] năm 1917 thì quân Pháp bắt đầu phản công. Nghĩa quân tan vỡ, Lương Ngọc Quyến tử thương, [[Đội Cấn]] sau đó dẫn số nghĩa quân còn lại đào thoát nhưng bị quân Pháp truy kích quyết liệt nên số còn lại cũng nhanh chóng ta ra. Đội Cấn sau đó tự sát để không bị bắt. Trần Trung Lập và một số đồng chí đào thoát được trở lại sang Trung Quốc tìm cách gây dựng lại lực lượng.