Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Ia Đrăng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n Đã lùi lại sửa đổi của Kimimonnooin (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của TuanminhBot
Dòng 69:
Còn QĐHK bắt đầu cuộc hành quân Long Reach (Trường Chinh)<ref>Vĩnh Lộc, trang 101: ''Vì vậy quyết định phải tổ chức truy kích địch của Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, trong đó Sư đoàn I Không Kỵ làm nỗ lực chính và Liên Đoàn Nhảy dù VN làm trừ bị sẵn sàng tham dự khi tình hình tiến triển và đòi hỏi, được toàn thể chiến sĩ của Sư đoàn hân hoan nhận lãnh, vì đã mấy đơn vị được may mắn mở những trang sử đầu của mình với một cuộc trường chinh (Long Reach)''.</ref> dùng máy bay oanh tạc khu vực và chuẩn bị tìm và diệt địch. Hành quân Long Reach được QĐHK khai triển qua ba cuộc hành quân: All the Way (Lữ đoàn 1 Air Cavalry, 27/10-9/11/1965), Silver Bayonet I (Lữ đoàn 3 Air Cavalry, 9/11-17/11/1965) và Silver Bayonet II (Lữ đoàn 2 Air Cavalry, 18/11-26/11/1965).<ref>Kinnard, Pleiku Campaign, trang 1.</ref>
 
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Mặt trận B3 nhận định:{{cần dẫn nguồn}}
 
{{cquote|''Ta đã diệt được một phận quan trọng quân cơ động của ngụy buộc quân Mỹ phải vào tham chiến. Nhiệm vụ bao vây của Plei Me đã hoàn thành. Chủ trương của ta mở bao vây, điều chỉnh lại đội hình. Sử dụng 2 Trung đoàn 320 và 33 sẵn sàng đánh bại các đợt phản kích tiếp theo của địch.''}}
Dòng 75:
Ngày 29 tháng 10, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]chủ động kết thúc đợt 1 chiến dịch, chuyển sang gia đoạn tiếp theo là tập trung lực lượng nhằm tiến công trại Plei Me lần thức hai.<ref>Vĩnh Lộc, trang 94: ''Cuộc hành quân Dân Thắng 21 chấm dứt, trại Pleime vững mạnh trở lại, nhưng trong số hai Trung đoàn V.C. đã tham dự, ta mới gây cho chúng được hơn 400 tổn thất nhân mạnh. Sự rút lui của địch là một chủ trương sáng suốt và hợp lý của BCH mặt trận V.C. nhưng địch sẽ tìm cách rửa hận và vì trại Pleime hẻo lánh còn là một cái gai trước mắt.''; Nguyễn Hữu An: ''Anh Chu Huy Mân chính ủy, anh Đặng Vũ Hiệp chủ nhiệm chính trị và tôi ở sở chỉ huy cơ bản đang chỉ huy chuẩn bị cho đợt 2 hoạt động đánh mục tiêu ở gần Plây-me.''</ref>
 
Ngày 10 tháng 11, 3rd Air Cavalry Brigade thay thế 1st Air Cavalry Brigade đồng thời nhận được lệnh thực hiện một thế nghi binh bằng các chuyển hướng hành quân sang đôngt<ref>Kinnard, trang 67: ''By this time Field Force Vietnam had asked the division to consider moving this operations east of Pleime</ref> nhằm khuyến dụ Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 qui tụ ba trung đoàn vào các vùng tập trung,<ref>Kinnard, trang 73: ''The movement and shift in emphasis from west to east was to further stimulate a forthcoming decision from the NVA division headquarters.''</ref> để chuẩn bị tấn công trại Plêim lần thứ hai ấn định vào ngày 16 tháng 11.<ref name="ReferenceB">Kinnard, trang 76: ''With American units seemingly withdrawing to the east of Pleime, the decision was to attempt to regain its early advantage with an attack. The target once again was the Pleime CIDG Camp. The division headquarters set the date for attack at 16 November, and issued orders to its three regiments''.</ref>
 
Ngày 11 tháng 11, vị trí đóng quân của ba trung đoàn [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] theo tin tình báo của Hoa Kỳ là: 320 tại YA820070, 33 tại YA 940011, và 66 tại YA9104.<ref>McChristian, J2/MACV.</ref>
Dòng 82:
 
== Diễn biến ==
Một tiểu đoàn không kỵ của Quân đội Hoa Kỳ đổ bộ xuống bờ nam sông Ia Đrăng. Một tiểu đoàn khác đổ bộ xuống cứ điểm 732. Một lữ đoàn không kỵ trấn giữ dọc đường 19B. Ngày 11 tháng 11, một tiểu đoàn quân Mỹ tiếp tục đổ xuống Plei Ngo, cách Plei Me 12&nbsp;km về phía tây.{{cần dẫn nguồn}}
 
Ngày 14 tháng 11 năm 1965, tiểu đoàn 1/7 không kỵ Mỹ đổ bộ xuống bãi đáp X-Ray.
 
Bộ chỉ huy trận Ia Đrăng đến đóng ở chân núi phía Nam [[Chư Prông]]. Lực lượng của họ bao gồm trung đoàn 66 và tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33, dưới sự chỉ huy của [[Nguyễn Hữu An]] (chỉ huy trưởng) và [[Đặng Vũ Hiệp]] (chính ủy), phối hợp với tiểu đoàn H15 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng miền Nam]] đánh nghi binh ở đường 13 (tuy nhiên tài liệu phương Tây lại cho rằng tiểu đoàn H15 cũng tham gia trận đánh). Đối mặt với họ là 3 tiểu đoàn của Quân đội Hoa Kỳ: 1/7 (do trung tá Harold Moore chỉ huy), 2/7 thuộc Lữ đoàn 3 Air Cavalry (Không Kỵ) và 2/5 thuộc Lữ đoàn 2 Air Cavalry (Không Kỵ), tổng cộng khoảng hơn 1.000 quân. Cùng thời gian này, Mỹ huy động 1 tiểu đoàn pháo binh lập 2 trận địa pháo (12 khẩu 105mm) ở tây nam Quênh Kla 2&nbsp;km và đông nam Ia Đrăng 3&nbsp;km để chi viện cho Lữ đoàn 3.{{cần dẫn nguồn}}
 
Như vậy, xét về quân số tác chiến đơn thuần, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] có ưu thế hơn (1.500 quân so với 1.000 quân). Tuy nhiên quân Mỹ được trang bị hỏa lực rất hùng hậu, trung bình 1 lính Mỹ tại chiến tuyến được 5 lính khác ở tuyến sau hỗ trợ phi pháo, ném bom, tải thương. Trong trận đánh, pháo binh Mỹ bắn 6000 loạt/ ngày, không quân xuất kích 300 phi vụ/ngày (có cả máy bay [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52]]), từ đó cho phép ước lượng pháo binh Mỹ tham chiến ít nhất 1 tiểu đoàn, không quân Mỹ tham chiến ít nhất 3 tiểu đoàn (chưa kể hàng trăm lượt trực thăng chuyển quân). Như vậy nếu tính cả lực lượng hỗ trợ tuyến sau thì quân Mỹ lại có ưu thế hơn hẳn.{{cần dẫn nguồn}}
 
=== Trận đánh mở màn===
Dòng 112:
Sau khi bị tiểu đoàn 9-QGP đẩy lùi, quân Mỹ cụm lại thành hình vòng quanh Bãi đáp X-Ray, ban đêm dùng máy bay thả đèn dù, dùng pháo binh bắn chặn xung quanh đề phòng tập kích.
 
Ngày 15 tháng 11, lúc 5 giờ 30 phút, tiểu đoàn 7 thuộc trung đoàn 66 QGP bất ngờ tấn công tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ QĐHK, lực lượng sử dụng gồm Đại đội 1 và 2 có hai khẩu [[súng cối]] 82&nbsp;mm của Đại đội 15. Tiểu đoàn triển khai cách địch khoảng 150 m, dùng hai khẩu cối 82&nbsp;mm bắn 14 quả sau đó lệnh cho Đại đội 1 và 2 xung phong. Bộ đội tiểu đoàn 7 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]dùng 1 trung đội đột kích với 3 khẩu [[B40|B-40]], 6 [[RPD]], 3 thượng liên, 13 AK vào diệt điện đài và đánh giáp lá cà với quân Mỹ. Sau vài phút rối loạn, quân Mỹ đã đánh trả ác liệt. Phía Mỹ có máy bay trợ chiến bằng bom và tên lửa. Máy bay Mỹ đến thả [[napan|bom napalm]] xuống trận địa lúc này đang lẫn lộn cả quân của hai phía. QĐHK thương vong thêm 24 lính chết và 20 bị thương.<ref name="ReferenceB">Merle L. Pribbenow Military Review – January-February 2001</ref>
 
Sau trận tập kích, tiểu đoàn 7 rời khỏi trận địa. Trước khi rút, tiểu đoàn lệnh đại đội 1 để lại một trung đội và hai khẩu súng cối để phục kích nếu trực thăng Mỹ xuống lấy xác thì đánh. Trên đường rút, bị máy bay và pháo binh đánh chặn, các đại đội của tiểu đoàn 7 dùng súng bắn rơi tại chỗ 4 chiếc trực thăng.
Dòng 130:
Suốt ngày 15, Mỹ cho nhiều lần máy bay hạ cánh xuống lấy xác lính Mỹ nhưng đều bị súng cối bắn nên không dám đỗ xuống. 17 giờ 30 phút ngày 15 tháng 11, Mỹ đổ hai đại đội xuống để chiếm lại trận địa và thu dọn xác chết, bị súng cối bắn cháy thêm hai chiếc trực thăng.
 
Trận tập kích lần thứ hai của tiểu đoàn 7 diễn ra đêm 15 rạng ngày 16 tháng 11. Tiểu đoàn 7 còn Đại đội 3 và hai khẩu súng cối 82mm chưa tham gia chiến đấu. Căn cứ vào tình hình quân Mỹ cụm lại, cấp trên quyết định dùng lực lượng này và tăng cường thêm Trung đội 1 của Đại đội 1 (đánh bám địch) và hai khẩu súng cối 82&nbsp;mm tổ chức trận tập kích ngay trong đêm 15. Tuy nhiên lần này quân Mỹ đã tổ chức bố phòng vững chắc hơn nhiều so với đêm trước và liên tục gọi pháo binh bắn phá dữ dội để yểm trợ nên [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] phải nhanh chóng chấm dứt tập kích sau khi chỉ khiến 6 lính Mỹ bị thương.<ref>Merle name="ReferenceB"L. Pribbenow Military Review – January-February 2001</ref>
 
Phía Mỹ-VNCH cho rằng tại chiến trường bãi đáp X-Ray, phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] không còn súng cao xạ và pháo kích nên phải sử dụng đến chiến thuật "biển người"<ref>Vinh Loc, trang 90: ''The enemy has lost nearly all their heavy crew-served weapons during the first phase... Their tactics relied mostly on the "human waves"''</ref>. Tuy nhiên, trên thực tế [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] không hề sử dụng chiến thuật "biển người". Do việc chiếm lĩnh trận địa trước nên một ổ phục kích có thể tiêu diệt nhiều đám quân Mỹ khác nhau, đồng thời các ổ phục kích cũng có thể hỗ trợ nhau. Mặc dù quân số của Mỹ-VNCH đông hơn nhưng nếu xét về tỷ lệ QGP-Mỹ ở từng cứ điểm thì QGP lại đông hơn do họ đã xé lẻ lực lượng đổ bộ của Mỹ-VNCH. Điều này khiến Mỹ-VNCH lầm tưởng QGP dùng chiến thuật biển người.{{cần dẫn nguồn}}
 
Sáng ngày 16 tháng 11, Moore nhận được lệnh cho rút tiểu đoàn 1/7 không kỵ bằng trực thăng vận, để lại hai tiểu đoàn 2/7 và 2/5 phòng thủ bãi đáp. Chủ ý là khiến cho phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] vững tâm vì tương quan lực lượng vẫn là 2:2.
Dòng 138:
Lúc 8 giờ 25 tối, Tướng DePuy chuẩn bị xong kế hoạch oanh tập B-52 vào trưa ngày hômg sau. Đại tá Brown, lữ đoàn trưởng lữ đoàn 1 không kỵ cam đoan là các toán quan không kỵ có đủ thì giờ trán ra xa khoảng cách an toàn 3 cây số.<ref>G3 Journal/IFFV, ghi sổ ngày 16 tháng 11</ref>
 
Giai đoạn đầu của trận Ia Đrăng chấm dứt với kết quả là 79 lính Mĩ chết và 121 bị thương. Con số này khá khớp với ước tính của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] rằng họ đã diệt hơn 250 quân địch. Tuy nhiên thương vong của phía Việt Nam thì khá mâu thuẫn. Moore báo cáo quân Mĩ "đếm" được 634 lính Việt Nam chết chưa kể số bị thương (ban đầu ông còn ước tính lên tới 834 nhưng sau đó hạ xuống do thấy vô lý). Còn theo chiến sử Trung đoàn 66 ghi nhận họ có 55 người hy sinh và khoảng 100 bị thương (chiếm 30% quân số của Tiểu đoàn 7).{{cần dẫn nguồn}}
 
=== Trận đánh ngày 17 tháng 11 (trận Albany) ===
Dòng 144:
Do bị [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đánh liên tục từ khi mới đặt chân xuống đất nên lực lượng Mỹ đã bị thiệt hại nặng nề, để tránh khu vực [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đang uy hiếp và rút lui an toàn, QĐHK trong khu vực còn lại khoảng 400 lính đã rời chỗ cũ sang bãi trống ở ngã ba Làng Tung và Làng Sinh.
 
Tiểu đoàn 8 Quân Giải phóng còn sung sức nhanh chóng cơ động xuống nhận nhiệm vụ mới mà trung đoàn giao (trên đường đi sẵn sàng chiến đấu vì có thể gặp địch). Tiểu đoàn 8 nhận được lệnh, chiều ngày 16 đã cho bộ đội hành quân ngay về vị trí sở chỉ huy trung đoàn. Tiểu đoàn 1 (sau này là Trung đoàn 33 QGP) hành quân đến trợ chiến nhưng lạc đường. Lực lượng tiểu đoàn 8 có ba đại đội bộ binh và một đại đội trợ chiến (đại đội 10) ngoài ra còn được tăng cường một đại đội 12,7 &nbsp;mm (6 khẩu, đạn đầy đủ). Đội hình hành quân theo đội hình chiến dấu tao ngộ sắn sàng chiến đấu cao, đặc biệt khi đi đến ngã ba đường Làng Tung và làng Sinh. Đội hình của Quân Giải phóng xuất phát từ ngày 16/11, đến 5h sáng ngày 17/11 thì tổ chức tấn công. Giai đoạn thứ hai của trận Ia Đrăng bắt đầu.
 
Sáng ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn không kỵ của QĐHK được lệnh rút ra khỏi bãi đáp, tiểu đoàn 2/5 tiến về hướng bắc tới bãi đáp Columbus, còn tiểu đoàn 2/7 tiến về hướng tây bắc tới bãi đáp Albany. Khi hai tiểu đoàn này lội bộ ra khỏi bãi đáp khoảng 3 cây số, thình lình B-52 trải thảm bom ngay xuống bãi đáp X-Ray và vùng lân cận.<ref>Kinnard, trang 94: ''Those troops still remaining in the now deserted X-Ray area suddenly learned the reason for the exodus of the Cavalry. A B-52 strike had been called virtually on top of the old positions''.</ref> Lúc 15 giờ trưa, B-52 oanh tập quang vùng Bãi đáp Albany. Tiếp sau đó một đơn vị không kỵ tiến vào vùng để thẩm định kết quả của cuộc oanh tập.<ref>G3 Journal/IFFV, ghi sổ ngày 17 tháng 11</ref> Khi tiến gần tới bãi đáp Albany tiểu đoàn 2/7 phát hiện ra vị trí của Tiểu đoàn 8 ở bờ sông Ia Đrăng và tổ chức tấn công lúc đơn vị này đang nghỉ trưa. Nhưng chính họ lại bị đặc công [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] phục kích.
 
Theo tài liệu cuả Quân Giải phóng, khoảng 12 giờ, Đại đội 8 đi đầu đã đến ngã ba không thấy địch, Đại đội 6 đến suối cầu gặp đại đội 1 tiểu đoàn 1, lực lượng ở dây cho biết phía trước có hai trung đội địch đang tiến về hướng Quân Giải phóng, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 Lê Xuân Phôi cho tất cả dừng lại triển khai đội hình chuẩn bị chiến đấu, đồng thời cho liên lạc báo cho đại đội 8 biết tình hình. Tiểu đoàn tổ chức thành hai thê đội: Thê đội 1 gồm đại đội 6 (thiếu trung đội 3) và Thê đội 2 gồm đại đội 7 và trung đội 3 đại đội 6. Trong vài phút, đại đội 6 đã bí mật triển khai xong thì phát hiện lính Mỹ đang đi về hướng QGP. Khi lính Mỹ vào gần cách QGP khoảng 200m, lính Mỹ đột ngột nổ súng, đại đội trưởng đại đội 6 thấy địch còn ở xa nên không cho đại đội nổ súng đợi đối phương vào gần hơn. Khi còn cách 40 đến 50 mét đại đội trưởng lệnh cho đại liên bắn, trung đội 1 và 2 cũng bắn mạnh vào đội hình lính Mỹ và xung phong. Chỉ trong khoảng 5 phút hai trung đội Mỹ đã bị tiêu diệt hoàn toàn. 12 giờ 7 phút, đội hình chính của lính Mỹ tới cách lực lượng QGP khoảng 300m, lính Mỹ hốt hoảng bắn vào đội hình của QGP. Lực lượng Mỹ đông, nhưng đại đội 6 chiếm địa hình có lợi nên nắm được thế chủ động, đại đội 8 khi nghe tiếng súng cũng cho bộ đội quay lại đánh vào bên sườn quân Mỹ. Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi chỉ huy đơn vị tiến công vào giữa đội hình quân Mỹ, làm đối phương bị rối loạn và bị cắt rời. Cùng lúc đó tiểu đoàn phó tên Luân của tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đang chỉ huy bộ đội lùng lính Mỹ ở hướng khác nghe súng nổ liền dẫn đơn vị đến phối hợp. Đội hình của lính Mỹ bị các lực lượng QGP khép vòng vây giữa thung lũng Iađrăng. Ở trên không, máy bay lên thẳng, máy bay phản lực quần lượn nhưng không có cách nào cứu nguy được cho đồng lính Mỹ phía dưới vì lực lượng Quân Giải phóng áp sát, đánh gần. Trận đánh đang tiếp diễn thì tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi hy sinh, chính trị viên phó tiểu đoàn cũng bị thương nặng phải đưa ra khỏi trận địa. Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 chỉ huy luôn cả hai đơn vị.{{cần dẫn nguồn}}
 
Theo tài liệu của phía Hoa Kỳ, Tiểu đoàn 8 dùng súng máy tấn công cùng bộ đội tiến công bên sườn đội hình đối phương đang tấn công đến gần rồi đột ngột đổi hướng tiến thẳng vào đối phương và triển khai chiến thuật chia cắt và đánh mặt đối mặt với QĐHK. Chiến thuật này khiến các vũ khí hạng nặng của QĐHK không triển khai được và quân của họ không được yểm trợ đầy đủ như mọi khi. Đồng thời các đơn vị của họ bị chia cắt nên lúng túng và không xác định rõ mục tiêu, nhiều khi bắn vào nhóm khác của quân mình. Trong khi đó, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] chiếm được các vị trí cao hơn và dễ dàng phát hỏa vào đội hình của đối phương đang di chuyển. Hậu quả là QĐHK thiệt hại nặng nề. Đại đội A của Tiểu đoàn 2 QĐHK bị chia cắt trong một khu vực trống trải bị mất 50 binh sĩ ngay trong những phút đầu tiên. Trong khi Đại đội C mất 20 người trong những phút đầu. Mọi việc trở nên tồi tệ hơn đối với QĐHK khi Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 33 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] cuối cùng cũng đến nơi và tấn công đối phương từ sau lưng. Trước tình hình trên, phía Mỹ phải điều Tiểu đoàn 2/5 tới Bãi Albany để chi viện và yểm trợ cho Tiểu đoàn 2/7 thu dọn xác chết và sơ tán thương vong.{{cần dẫn nguồn}}
 
Đến 8 giờ tối ngày 18 tháng 11, trận chiến ở thung lũng Ia Đrăng kết thúc với việc các đơn vị QĐHK rút lui khỏi Bãi đáp Albany. Trận đánh thứ 2 này thực sự là một thảm họa với quân Mỹ: 155 lính bị giết và 121 bị thương, tức hơn 2/3 lực lượng; riêng Đại đội C chịu tổn thất lớn nhất với con số thương vong lên tới 95 người. Đây là thương vong cao nhất trong 1 ngày mà Mỹ phải chịu ở Việt Nam tính đến khi đó. Quân Mỹ tuy vậy vẫn báo cáo giết 403 lính đối phương, nhưng thực tế con số này là không có cơ sở, vì thực tế quân Mỹ trong trận này gần như bị xóa sổ và mất trận địa, không có cách nào để có thể "đếm" được thương vong của đối phương.{{cần dẫn nguồn}}
 
Trong ngày 18 tháng 11, vào buổi sáng, Tướng Westmoreland và Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng VNCH, từ Sài G̀òn bay lên Pleiku gặp trung tá Moore và thăm tiểu đoàn 1/7 không kỵ tại trại Hollaway, đồng thời tới bản doanh lữ đoàn 3 không kỵ. Tại đây, hai ông nghe đại tá Brown thuyết trình về trận Ia Drăng và bay trực thăng quan sát chiến trường. Vào buổi chiều hai ông tới thăm các thương bệnh binh tham dự trận Bãi đáp Albany được chữa trị tại bệnh viện ở Qui Nhơn.<ref>Westmoreland's notes, ghi vào sổ ngày 18 tháng 11</ref>
 
Trong Hồi ký, tướng Đặng Vũ Hiệp viết:{{cần dẫn nguồn}}
 
{{cquote| ''...Chúng tôi đi kiểm tra trận địa sau khi ta làm chủ chiến trường, địa hình hàng chục ki-lô mét vuông bị đảo lộn, cây gãy đổ ngổn ngang, không còn đường còn lối. Địch chết thành đống, có chỗ năm, ba tên; xen lẫn vào đó là xác chiến sĩ ta. Nhiều đồng chí nằm đè lên xác lính Mĩ, lưỡi lê còn cắm vào ngực tên địch. Có đồng chí hy sinh tay vẫn nắm chặt quả lựu đạn bên sườn. Có tổ ba chiến sĩ hy sinh mà phía trước và phía sau các anh có hàng chục xác Mĩ. Có đồng chí hy sinh trên vai còn vác thi thể đồng đội. Nhìn vào trạng thái địch ta như trên không những thấy rõ được tính chất quyết liệt một cách cụ thể, đồng thời thấy được sự hy sinh dũng cảm tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ ta. Về mặt chiến thuật càng thấy rõ nét hoạt động của tổ ba, thậm chí của những bộ phận một, hai đồng chí có rất nhiều tác dụng trong việc đột nhập sâu vào đội hình trung tâm của địch.''}}
 
Theo tài liệu của Việt Nam Cộng hòa, ở hướng phối hợp tại Đức Cơ, Tiểu đoàn 2/5 (Lữ đoàn 2 Air Cavalry QĐHK) cùng 2 đại đội pháo thiết lập tại bãi đáp Crooks yểm trợ cho Lữ đoàn dù gồm 5 tiểu đoàn của QLVNCH đến trợ chiến. Trung đoàn 320 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] nghênh chiến nhưng không gây thiệt hại nặng cho đối phương như ở hai hướng kia; trái lại, bị quân Dù VNCH gây ''265 chết (đếm xác), 10 bị bắt và 58 vũ khí tịch thu''.<ref>Vinh Loc, trang 103.</ref> Ngày 18 tháng 11, Bộ tư lệnh chiến dịch của Quân Giải phóng ra lệnh cho Trung đoàn 33 tập kích trận địa pháo Falcon ở phía tây suối Ia Muer. Thực hiện mệnh lệnh, từ 16 giờ 30 phút ngày 18, hai tiểu đoàn 2 và 3 cùng phân đội súng cối do tham mưu trưởng trung đoàn trực tiếp chỉ huy nổ súng tiến công trận địa pháo Mỹ. Sau ít phút chiến đấu đã có 3 lính Mỹ chết và 13 bị thương, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] phá huỷ 3 khẩu pháo 105mm, 1 khẩu cối 81mm, 5 máy bay trực thăng và bắn rơi 2 chiếc khác; thu 750 viên đạn pháo và 30 viên đạn cối.{{cần dẫn nguồn}}
 
== Kết quả và ảnh hưởng ==
Dòng 170:
Ngược lại, phía Mỹ tuyên bố là hơn 1.000 lính đối phương bị giết chưa kể bị thương (634 trong trận X-Ray và 403 trong trận Albany). Ngày 17 tháng 11, sau 3 ngày B-52 trải thảm bom, nguồn tình báo qua đài kiểm thính của Hoa Kỳ cho biết Mặt Trận B3 báo cáo đã bị mất 2/3 lực lượng<ref>Vinh Loc, trang 97.</ref>, nghĩa là 6 trên 9 tiểu đoàn; còn lại hai Tiểu đoàn 635 và 334 thuộc Trung đoàn 320<ref>Pribblenow, The Fog of War, footnote 53 trích ''The Plei Me Offensive''.</ref>, và 5 đại đội thuộc Trung đoàn 33 và Trung đoàn 66 tham chiến trong trận bãi đáp Albany (khi Lực lượng Dù gồm 5 tiểu đoàn hành quân vào Ia Drăng thì chỉ bắt gặp 2 tiểu đoàn [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]).<ref>Vinh Loc, trang 101.</ref><ref>Vinh Loc, trang 112 ghi con số 2.200 cho Trung đoàn 33, gồm 1.500 thuộc 3 tiểu đoàn và 700 thuộc các đơn vị yểm trợ của trung đoàn với tổn thất là 40% tính đến ngày 11 tháng 11 năm 1965. Nguồn là hồi chánh viên Bùi Văn Cường, chính ủy viên, đại đội truyền tin, trung đoàn 33.</ref> Mặc dù thương vong phía Mỹ rất lớn, các quan chức cấp cao của Mỹ ở Sài Gòn lại tuyên bố trận Ia Đrăng là một trận đánh vô cùng quan trọng vì đây là cuộc đụng độ đáng kể đầu tiên giữa quân đội Mỹ và các lực lượng chủ lực của QGP. Nó chứng minh rằng QGP đã chuẩn bị sẵn sàng để đứng lên chiến đấu trong những trận đánh lớn ngay cả khi họ có thể phải chịu thương vong nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao của Mỹ đã kết luận rằng quân đội Mỹ có thể gây thiệt hại đáng kể cho lực lượng đối phương trong các trận chiến như vậy.<ref>http://www.history.com/this-day-in-history/major-battle-erupts-in-the-ia-drang-valley</ref>
 
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa tổng kết thiệt hại phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]từ 19-10 đến 26-11 như sau: chết đếm xác 4.254, chết ước tính 2.270, bị thương 1.293, bị bắt 179, vũ khí cộng đồng 169, vũ khí cá nhân 1.027.<ref>Vinh Loc, trang 111.</ref> Tướng Kinnard báo cáo tổn thất phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] do chính các bản doanh dã chiến cấp trung đoàn [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]] báo cáo về trung ương<ref>Kinnard, trang 70: ''The 33d Regiment gathered in the last of its organic units and began to count noses. There were many missing. The regimental muster brought these casualty figures...''</ref>; các báo cáo này bị các đài kiểm thính phía bên QLVNCH nghe ngóng chận bắt được.<ref>McChrítian trang 41; Vinh Loc, trang 97 và 111.</ref> Ngoài ra báo cáo tổn thất của Bộ Tư lệnh Quân đoàn II bao gồm các tổn thất do 5 ngày bom trải thảm B-52 gây ra, mà phía QGP và Hoa Kỳ không đề cập tới. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho rằng phía[[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] không đạt được mục tiêu chiếm cứ trại và tiêu diệt quân tiếp viện và họ báo cáo với cấp trên rằng toàn bộ lực lượng B3 bị đánh tan và đẩy lui qua biên giới Căm Bốt.<ref>Vinh Loc, trang 103: ''Ngày 2426 tháng 11, vì không còn đụng độ với địch, Lữ đoàn Dù rút ra khỏi vùng hành quân chấm dứt đợt ba của Trận Pleime''.</ref>
 
Ngược lại, theo số liệu của QGP thì thương vong của QGP trong chiến dịch (từ 19/10 tới 26/11) là 554 tử trận và 669 bị thương. [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.974 địch (trong đó có khoảng 1.700 lính Mỹ), phá huỷ 88 xe quân sự (có 42 xe tăng và xe bọc thép), 5 khẩu pháo 105mm, bắn rơi 59 máy bay. [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] kết luận họ đã hoàn thành các mục tiêu đề ra trong chiến dịch: đánh thiệt hại nặng 1 lữ đoàn không kỵ tinh nhuệ của Mỹ, lực lượng[[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] thu được nhiều kinh nghiệm quý báu trong tác chiến chống chiến thuật [[trực thăng vận]] của Mỹ, cũng như cách đánh áp sát để hạn chế tối đa ưu thế hỏa lực không quân, pháo binh vượt trội của Mỹ<ref name="ReferenceA"/>
Dòng 176:
Sau trận đánh, Trung đoàn 66 đã được tặng thưởng một lúc 2 [[Huân chương Quân công|Huân chương quân công]] hạng nhất, vì theo lời đại tướng [[Nguyễn Chí Thanh]] thì "do không có huân chương nào cao hơn, vì vậy tặng một lúc 2 huân chương để thưởng công cho thành tích tuyệt vời của Trung đoàn 66". Nhiều chiến sĩ được tặng danh hiệu [[Dũng sĩ diệt Mỹ]]: Đại đội trưởng Đại đội 2 [[Lê Văn Tam]] được tặng huân chương chiến công hạng nhì và danh hiệu dũng sĩ diệt Mĩ cấp 3, Chính trị viên phó Đại đội 6 Đinh Văn Đế diệt 8 lính Mĩ (3 bằng dao găm). Trung uý Vũ Đình Dự - Chính trị viên Đại đội 8, Trung úy Đoàn Ngọc Đảnh - Đại đội trưởng Đại đội 7, Thiếu úy Nguyễn Xuân Ngạnh trung đội trưởng, Thiếu úy Vũ Đức Thắng trung đội trưởng, chiến sĩ trẻ Lê Văn Quỳnh (18 tuổi), tiểu đội phó Hà Huy Trọng, Phạm Văn Tiết, Cao Thái Thưởng, Trần Minh Duyên... là những chiến sĩ được cấp trên ghi nhận diệt từ 5-15 lính Mỹ. Đặc biệt Lê Khắc Nga, Lê Văn Điều mỗi người được ghi nhận diệt hơn 20 lính Mỹ, là 2 chiến sĩ đạt danh hiệu [[Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú]] đầu tiên ở chiến trường.{{cần dẫn nguồn}}
 
Về mặt chiến thuật, trận đánh đã cung cấp cho [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] nhiều kinh nghiệm quý về tác chiến chống quân Mỹ, một đối thủ vượt trội về hỏa lực và sức cơ động. Tiêu biểu là chiến thuật "Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh", tức áp dụng lối đánh cận chiến áp sát lính Mỹ để vô hiệu hóa hỏa lực pháo binh và không quân của Mỹ. Các tài liệu của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] ghi nhận:{{cần dẫn nguồn}}
 
{{cquote| ''Lựa chọn cách đánh và đánh thắng địch ngay trận đầu là nét độc đáo của nghệ thuật chỉ huy chiến dịch. Quân Mỹ mới vào miền Nam tuy có chiếm ưu thế về hỏa lực, sức cơ động nhưng chúng rất chủ quan không đánh giá đúng mình và coi thường đối phương. Mặt khác ta không coi thường địch mà đã chuẩn bị tốt tư tưởng tâm lý cho cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng chấp nhận hy sinh để giành thắng lợi.''
Dòng 182:
''Sự sắc sảo của nghệ thuật chỉ huy chính là biết khoét sâu vào chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch để lựa chọn địa hình, lựa chọn cách đánh đúng, giành thắng lợi trong từng trận chiến đấu. Trong chiến dịch này mưu hay của ta là lừa địch, kế giỏi là dụ quân Mỹ vào đúng điểm quyết chiến ta đã chọn; phát huy sở trường đánh gần của ta để làm hạn chế điểm mạnh về hỏa lực, cơ động Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch đã khẳng định ta có khả năng đánh tiêu diệt từng tiểu đoàn quân Mỹ.''}}
 
Một số thế chiến thuật được [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đem ra áp dụng trong toàn trận chiến gồm có: đánh điểm diệt viện, đánh diện diệt điểm, "nắm thắt lưng địch mà đánh", "biển người"<ref>Vinh Loc, trang 90.</ref>, "kiểm thủ kích vĩ"<ref>Vĩnh Lộc, trang 132.</ref>...Tuy nhiên, trên thực tế, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] không hề sử dụng biển người do họ sử dụng ưu điểm của chiến thuật đánh điểm diệt viện, đánh diện diệt điểm nên tỷ lệ QGP-Mỹ ở mỗi cứ điểm có lợi cho QGP. Từ đó, phía Hoa Kỳ luôn có cảm giác số quân của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đông hơn trong khi trên thực tế quân số của Mỹ-VNCH lại là bên đông hơn.{{cần dẫn nguồn}}
 
Về mặt chiến lược, trận đánh gây ra một ảnh hưởng sâu rộng về quan điểm chiến tranh của người Mỹ. Ngay tuần lễ sau đó Westmoreland đã đề nghị cho ông thêm 41.500 lính Mỹ{{fact|date=7-2014}} với lý do "lực lượng chủ lực Bắc Việt Nam đã thâm nhập vào miền Nam". Những đề nghị này không ngừng tăng lên kể từ tháng 7, và đề nghị mới này đưa số quân Mỹ đến VN lên đến 375.000 người. Bộ trưởng [[McNamara]] phải bỏ dở ngay một hội nghị của OTAN ở [[Paris]], khẩn cấp sang Sài Gòn một thời gian 30 giờ để đánh giá lại cuộc chiến. Mac Namara tuyên bố gửi cho ông ta 400.000 quân ''"không đảm bảo thắng lợi"'' - ''"Lính Mỹ trong những cuộc hành quân mỗi tháng bị chết có đến hơn 1.000"'' và cơ may vào đầu năm 1967 phải "một mức độ cao hơn". Lần đầu tiên Mac Namara nói đến việc Chính phủ có thể "thử cách thương lượng theo giải pháp hoà giải" đồng thời vẫn gửi quân tăng cường ''"ở một mức độ tối thiểu"''.{{cần dẫn nguồn}}
Dòng 188:
Bộ trưởng Quốc phòng [[Israel]] khi đó sang thăm Việt Nam Cộng hòa đã đóng vai một nhà báo chiến trường đến quan sát chiến dịch Pleime về nói như sau: ''"Quân đội Mỹ ở Việt Nam đã có đủ những vũ khí và phương tiện mà những người chỉ huy quân sự các nước khác chỉ thấy trong mơ. Thế mà, mỗi khi đối phương đã tiếp nhận giao chiến là trên 90% các trận đánh, quyền chủ động thuộc về họ...".''<ref>[[http://antg.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=68129|Chiến dịch Pleime – Tây Nguyên nhìn từ nước Mỹ</ref>
 
Tướng Mỹ G. Moore và phóng viên chiến tranh L. Galoway, cả 2hai đã chiến đấu trong trận Ia Đrăng sau này nhận định rằng: ''"Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam".''<ref>Dẫn theo cuốn Đã một thời chúng tôi là những người lính... và trẻ trung của Trung tướng G. Morơ và L. Galoguây do Vương Minh Quang dịch, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1993.</ref>
 
Rõ ràng trận đụng độ đầu tiên với lực lượng chủ lực [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã làm những người đứng đầu quân đội Mỹ tại Việt Nam thay đổi cách nhìn lạc quan về triển vọng "chiến thắng dễ dàng" vốn vẫn được duy trì hồi tháng 7, vốn bắt nguồn từ sự tự tin về ưu thế hỏa lực và công nghệ của "sức mạnh siêu cường" trước đối phương.<ref>Sự lừa dối hào nhoáng" - Neil Sheehan, trang 690 - 691</ref>
 
=== Diện và Điểm tại mặt trận thung lũng Ia Drăng ===
[[File:Arc Light operation at Chu Pong November 1965.jpg|thumb|440px|Oanh tập B-52 vào vị trí các đơn vị thuộc lực lượng Mặt Trận B3 từ 15-20 tháng 11]]
 
Cuộc hành quân Silver Bayonet I của Lữ đoàn 3 Không Kỵ Mỹ tại chân rặng núi Chu Prông chỉ là ''diện'', nhằm yểm trợ cho ''điểm'' là các cuộc ném bom trải thảm kéo dài 5 ngày của các pháo đài bay [[B-52]].<ref>Kinnard, trang 88.</ref> Ngày 10 tháng 11, Lữ đoàn 3 Không Kỵ nhận được lệnh chuyển hướng hành quân từ tây sang đông<ref>Kinnard, trang 67: ''By this time Field Force Vietnam had asked the division to consider moving this operations east of Pleime''.</ref> nhằm dụ mặt trận B3 tập trung quân<ref>Kinnard, trang 73: ''The movement and shift in emphasis from west to east was to further stimulate a forthcoming decision from the NVA division headquarters''.</ref> chuẩn bị tấn công trại Pleime lần thứ hai ấn định vào ngày 16 tháng 11.<ref>Kinnard, trang 76: ''With American units seemingly withdrawing to the east of Pleime, the decision was to attempt to regain its early advantage with an attack. The target once again was the Pleime CIDG Camp. The division headquarters set the date for attack at 16 November, and issued orders to its three regiments''.<name="ReferenceB"/ref> Ngày 12 tháng 11, Lữ đoàn 3 Không Kỵ nhận được lệnh chuẩn bị tấn kích vào chân rặng núi Chu Prông.<ref name="Coleman, trang 196"/> Ngày 13 tháng 11, đại tá Brown gặp trung tá Moore và ra lệnh cho Moore hành quân tấn kích vào ngày hôm sau.<ref name="Coleman, trang 199"/> Ngày 14 tháng 11, Mặt Trận B3 của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công trại Pleime<ref>Nguyễn Hữu An: ''Anh Chu Huy Mân chính ủy, anh Đặng Vũ Hiệp chủ nhiệm chính trị và tôi ở sở chỉ huy cơ bản đang chỉ huy chuẩn bị cho đợt 2 hoạt động đánh mục tiêu ở gần Plây-me. Nhận được tin liên tiếp từ các hướng báo cáo về, Mỹ đã đổ quân, chúng tôi cho lệnh đình lại việc đánh Chư Ho''.</ref> và đưa hai tiểu đoàn 7 và 9 ra ứng chiến với ba Tiểu đoàn 1/7, 2/7 và 2/5 Không Kỵ ở Ia-drang (kết quả là Tiểu đoàn 1/7 bị tiêu diệt gần hết ngay khi vừa đổ bộ, Tiểu đoàn 2/7 và 2/5 thiệt hại 2/3 quân số). Tới tháng 12, Quân Giải phóng mới tổ chức tấn công Plei-me.<ref>http://baothainguyen.org.vn/tin-tuc/chinh-tri/y-nghia-quan-trong-cua-chien-thang-plei-me-232875-97.html</ref>
 
Ngày 15 tháng 11, đúng 16 giờ, B-52 bắt đầu trải thảm bom tại địa điểm YA 8702, 7 cây số cách bãi đáp X-Ray về hướng tây và tiếp tục trong 5 ngày kế tiếp. Kế hoạch oanh tạc này đã được điều nghiên từ tháng 9 năm 1965.<ref>McChristian, J2/MACV, trang 6: ''The Chu Pong base was known to exist well prior to the Pleime attack and J2 MACV had taken this area under study in September 1965 as a possible B-52 target.''</ref> Tướng William DePuy, Trưởng ban 3/MACV phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNCH thực hiện cuộc hành quân oanh tạc này để phá chiến thuật "nắm thắt lưng địch mà đánh" cũng như phá thế trận phòng ngự của Quân Giải phóng.<ref>G3 Journal/I Field Force Vietnam, November 15 entry: ''Gen DePuy called Col Barrow and asked if Arc Light had been cleared with CG II Corps. Col Barrow replied yes, CG II Corps has approved Arc Light. Target area approved by Col Barrow and Col McCord. Also Gen DePuy wanted to know if the elem of 1st Cav had received the 151600H restriction on not going west of YA grid line. Col Barrow informed Gen De Puy that the 1st Cav had acknowledged receipt of the restriction and would comply. Gen DePuy personally changed target configuration.''</ref>
 
Ngày 15 và 16 tháng 11, B-52 nhắm trải thảm bom vào các vị trí của các đơn vị thuộc Trung đoàn 33 và 32; ngày 17 và 18, các đơn vị thuộc Trung đoàn 66 (ngày 17 ngay tại bãi đáp X-Ray); ngày 19, các đơn vị thuộc Trung đoàn 66 và 33; và ngày 20, các đơn vị thuộc Trung đoàn 32.
 
Mặt trận ''điểm'' oanh tạc bom B-52 được tiếp tục trợ lực bởi các thành phần bộ chiến của Lữ đoàn 2 Không Kỵ (hành quân Silver Bayonet II, 18-26 tháng 11) và nhóm nhảy dù VNCH (hành quân Thần Phong 7, 18-26 tháng 11).
 
=== Trong văn hóa đại chúng ===
Hàng 201 ⟶ 212:
 
[[Joseph L. Galloway]], nhà báo từng trực tiếp quan sát trận đánh đã "rất ngạc nhiên và tức giận sau khi xem phim"... Theo Galloway, giữa cuốn sách mà ông là đồng tác giả với bộ phim, dù cùng một câu chuyện nhưng có nội dung khác nhau, Galloway khẳng định cuốn sách đã phản ánh đúng sự thật, nhưng khi lên phim mọi chuyện thay đổi. Galloway ngay sau đó cũng đã chỉ trích các nhà làm phim. Theo ông, Hollywood đã "phim ảnh hoá" tới hơn 80% sự thật để thu được lợi nhuận cao, trong khi thông thường chỉ được phép dưới 20%.{{cần dẫn nguồn}}
 
== Ý nghĩa về mặt học thuật quân sự ==
 
===Chiến thuật đánh điểm, diệt viện===
====Phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] ====
Trong trận này, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã sử dụng chiến thuật "đánh điểm, diệt viện". [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã tiến hành chủ động giăng sẵn một cái bẫy để nhử viện binh [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] và Quân đội Mỹ, sau đó tiêu diệt đội quân này. [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã lợi dụng sự mệt mỏi khi di chuyển và mất tập trung khi tới trận địa từ phía đối phương để tấn công bất ngờ đối phương. Chiến thuật của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã đánh vào đúng điểm yếu của chiến thuật trực thăng vận của Hoa Kỳ là không có lực lượng mặt đất hỗ trợ khi đổ bộ bằng đường không.<ref name="tapchiqptd.vn">http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/net-dac-sac-cua-nghe-thuat-tac-chien-tran-ia-drang-nam-1965/8339.html</ref> Theo đó, QGP sẽ nghiên cứu kỹ địa hình, địa vật trên chiến trường, sau đó họ sẽ tổ chức các ổ phục kích trên trận địa, các ổ phục kích có thể hỗ trợ nhau và xé lẻ đội hình di chuyển của Mỹ-VNCH. QGP sẽ chủ động tấn công các nhóm quân đi đầu của Mỹ-VNCH trước để tạo sự thu hút của lực lượng viện binh của đối phương, buộc lực lượng viện binh của đối phương phải đi vào những con đường mà QGP đã triển khai sẵn các ổ phục kích. Khi lực lượng viện binh lọt trận địa, các ổ phục kích sẽ nổ súng đồng thời.
 
Việc này có ưu điểm là có thể sử dụng 1 quân số ít (QGP) để chống lại 1 đội quân nhiều người (Mỹ-VNCH) cũng như khiến đối phương (Mỹ-VNCH) hoang mang, mất phương hướng không xác định được quân số và vị trí đối phương trong chiến đấu, thậm chí có lầm tưởng là quân số đối phương vượt trội mình. Tuy nhiên, chiến thuật này có nhược điểm là phải tổ chức các ổ phục kích gần trận địa (do QGP phải chạy bộ tới trận địa chứ không có phương tiện cơ giới hỗ trợ và cũng để đảm bảo bí mật), điều này sẽ làm thương vong tăng lên nếu Mỹ sử dụng B-52 rải thảm. Để khắc phục, QGP sẽ phân tán lực lượng, sau khi B-52 rải thảm, họ mới tập trung lại ở các ổ phục kích trong thời gian vừa đủ để chuẩn bị nghênh chiến với đối phương. Kèm theo đó là các biện pháp nghi binh để B-52 rải thảm nhầm chỗ.
 
Cụ thể trong trận này, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] tiến hành vây hãm đồn Plei-me và diệt đồn Chư Ho để buộc Quân Mỹ và VNCH điều quân từ Kon Tum lên ứng cứu, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] sẽ tiêu diệt đối phương khi đối phương cơ động. Để hoãn việc QGP đánh Plei-me, QĐHK buộc phải cơ động lực lượng bằng trực thăng lên Ia-drang, nơi QGP đã giăng sẵn bẫy để chờ lực lượng đổ bộ đường không của QĐHK.<ref>http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/net-dac-sac-cua-nghe-thuat-tac-chien-tran-ia-drang-nam-1965/8339.html</ref>
 
====Phía Quân đội Hoa Kỳ ====
[[File:Arc Light operation at Chu Pong November 1965.jpg|thumb|440px|Oanh tập B-52 vào vị trí các đơn vị thuộc lực lượng Mặt Trận B3 từ 15-20 tháng 11]]
{{OR}}
Cuộc hành quân Silver Bayonet I của Lữ đoàn 3 Không Kỵ Mỹ tại chân rặng núi Chu Prông chỉ là ''diện'', nhằm yểm trợ cho ''điểm'' là các cuộc ném bom trải thảm kéo dài 5 ngày của các pháo đài bay [[B-52]].<ref>Kinnard, trang 88.</ref> Ngày 10 tháng 11, Lữ đoàn 3 Không Kỵ nhận được lệnh chuyển hướng hành quân từ tây sang đông<ref>Kinnard, trang 67: ''By this time Field Force Vietnam had asked the division to consider moving this operations east of Pleime''.</ref> nhằm dụ mặt trận B3 tập trung quân<ref>Kinnard, trang 73: ''The movement and shift in emphasis from west to east was to further stimulate a forthcoming decision from the NVA division headquarters''.</ref> chuẩn bị tấn công trại Pleime lần thứ hai ấn định vào ngày 16 tháng 11.<ref>Kinnard, trang 76: ''With American units seemingly withdrawing to the east of Pleime, the decision was to attempt to regain its early advantage with an attack. The target once again was the Pleime CIDG Camp. The division headquarters set the date for attack at 16 November, and issued orders to its three regiments''.</ref> Ngày 12 tháng 11, Lữ đoàn 3 Không Kỵ nhận được lệnh chuẩn bị tấn kích vào chân rặng núi Chu Prông.<ref name="Coleman, trang 196"/> Ngày 13 tháng 11, đại tá Brown gặp trung tá Moore và ra lệnh cho Moore hành quân tấn kích vào ngày hôm sau.<ref name="Coleman, trang 199"/> Ngày 14 tháng 11, Mặt Trận B3 của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] ra lệnh đình chỉ cuộc tấn công trại Pleime<ref>Nguyễn Hữu An: ''Anh Chu Huy Mân chính ủy, anh Đặng Vũ Hiệp chủ nhiệm chính trị và tôi ở sở chỉ huy cơ bản đang chỉ huy chuẩn bị cho đợt 2 hoạt động đánh mục tiêu ở gần Plây-me. Nhận được tin liên tiếp từ các hướng báo cáo về, Mỹ đã đổ quân, chúng tôi cho lệnh đình lại việc đánh Chư Ho''.</ref> và đưa hai tiểu đoàn 7 và 9 ra ứng chiến với ba Tiểu đoàn 1/7, 2/7 và 2/5 Không Kỵ ở Ia-drang (kết quả là Tiểu đoàn 1/7 bị tiêu diệt gần hết ngay khi vừa đổ bộ, Tiểu đoàn 2/7 và 2/5 thiệt hại 2/3 quân số). Tới tháng 12, Quân Giải phóng mới tổ chức tấn công Plei-me.<ref>http://baothainguyen.org.vn/tin-tuc/chinh-tri/y-nghia-quan-trong-cua-chien-thang-plei-me-232875-97.html</ref>
 
Ngày 15 tháng 11, đúng 16 giờ, B-52 bắt đầu trải thảm bom tại địa điểm YA 8702, 7 cây số cách bãi đáp X-Ray về hướng tây và tiếp tục trong 5 ngày kế tiếp. Kế hoạch oanh tạc này đã được điều nghiên từ tháng 9 năm 1965.<ref>McChristian, J2/MACV, trang 6: ''The Chu Pong base was known to exist well prior to the Pleime attack and J2 MACV had taken this area under study in September 1965 as a possible B-52 target.''</ref> Tướng William DePuy, Trưởng ban 3/MACV phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNCH thực hiện cuộc hành quân oanh tạc này để phá chiến thuật "nắm thắt lưng địch mà đánh" cũng như phá thế trận phòng ngự của Quân Giải phóng.<ref>G3 Journal/I Field Force Vietnam, November 15 entry: ''Gen DePuy called Col Barrow and asked if Arc Light had been cleared with CG II Corps. Col Barrow replied yes, CG II Corps has approved Arc Light. Target area approved by Col Barrow and Col McCord. Also Gen DePuy wanted to know if the elem of 1st Cav had received the 151600H restriction on not going west of YA grid line. Col Barrow informed Gen De Puy that the 1st Cav had acknowledged receipt of the restriction and would comply. Gen DePuy personally changed target configuration.''</ref>
 
Mặt trận ''điểm'' oanh tạc bom B-52 được tiếp tục trợ lực bởi các thành phần bộ chiến của Lữ đoàn 2 Không Kỵ (hành quân Silver Bayonet II, 18-26 tháng 11) và nhóm nhảy dù VNCH (hành quân Thần Phong 7, 18-26 tháng 11).
 
===Chiến thuật nắm thắt lưng địch mà đánh===
 
[[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] nhận ra điểm yếu trong đổ bộ của Quân đội Mỹ và VNCH là sẽ sử dụng pháo binh và B-52 rải thảm (thường là B-52 trước, pháo binh sau và đổ bộ sau cùng) để dọn dẹp chiến trường trước, sau đó mới đổ bộ quân bằng đường không hoặc bằng xe bọc thép. Chiến thuật này có một điểm yếu là lực lượng bảo vệ lực lượng đổ bộ rất mỏng, không kịp chiếm lĩnh trận địa khi lực lượng đổ bộ tiến hành xâm nhập trận địa (thông thường lính Mỹ sẽ cách trận địa 3km trong khi B-52 rải thảm - quá xa trận địa nếu so với quân Giải phóng vốn có lợi thể do đang trong thế phòng thủ). Lợi dụng điều này, khi B-52 rải thảm và pháo binh Quân đội Mỹ và VNCH tấn công, lực lượng [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] sẽ trú ẩn để tránh thương vong hoặc tiến hành các biện pháp nghi binh để làm tiêu hao sức mạnh pháo binh đối phương. Ngay khi pháo binh đối phương ngừng bắn và lực lượng Mỹ-VNCH tổ chức nhóm quân phòng vệ cho nhóm đổ bộ (đi sau) xâm nhập trận địa để tấn công QGP thì lực lượng [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] sẽ sử dụng lợi thế phòng thủ tại chỗ nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa trước và đánh bật lực lượng phòng vệ cho lực lượng đổ bộ xâm nhập của đối phương. Khi lực lượng đổ bộ (lực lượng chủ lực của Mỹ) của đối phương xâm nhập trận địa thì cũng là lúc lực lượng [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã chiếm lĩnh xong các vị trí thuận lợi trên trận địa và tiến hành phản kích. Lúc này, lực lượng đổ bộ của Quân đội Mỹ và VNCH mới xâm nhập trận địa nên không có đủ thời gian để tìm và chiếm lĩnh các vị trí thuận lợi nên hiển nhiên đã lọt ổ phục kích của lực lượng [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]. Sau đó, lực lượng [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] sẽ tiến công ở cự ly gần, thậm chí giáp lá cà để pháo binh và cường kích đối phương không dám chi viện vì sợ đánh nhầm vào Quân đội Mỹ và VNCH ở dưới mặt đất. Với lợi thế về địa hình, địa vật, thậm chí là tỷ lệ quân số xét ở mỗi cứ điểm của trận địa (mặc dù tổng quân số của Mỹ và VNCH có thể lớn hơn nhưng do quá trình chiếm lĩnh trận địa, QGP đã xé lẻ lực lượng đối phương khiến cho xét trên mỗi cứ điểm, quân số của QGP lại nhiều hơn và một cứ điểm sẽ đánh được nhiều đám lính của đối phương do lợi thế về địa hình) nên QGP có thể đánh bật đối phương ra khỏi vị trí phòng thủ của mình<ref>http://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/dai-tuong-nguyen-chi-thanh/nghe-thuat-nam-that-lung-dich-ma-danh-cua-dai-tuong-nguyen-chi-thanh-261462</ref>
 
===Chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận===
"Trực thăng vận”, “thiết xa vận” là một chiến thuật của Mĩ-VNCH sử dụng ở miền Nam. Theo đó, Mỹ-VNCH sử máy bay trực thăng và các loại tăng, thiết giáp nhằm nhanh chóng cơ động lực lượng, bất ngờ thực hiện bao vây để tiêu diệt các lực lượng du kích tập trung của Quân Giải phóng. Mĩ coi chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” là một biện pháp then chốt, quyết định thắng lợi trong “Chiến tranh đặc biệt”. Với tính năng kĩ thuật, chiến thuật đặc biệt, máy bay lên thẳng có thể cùng một chuyến nhả cả người lẫn binh khí kĩ thuật, đảm bảo được hoả lực mạnh cho quân đổ bộ, có thể nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Trực thăng có thể tránh được các chướng ngại về địa hình, do đó đảm bảo sử dụng được kịp thời các kết quả tình báo, dễ đạt được yếu tố bất ngờ về chiến thuật. Đối với thiết giáp, đây là phương tiên phòng vệ cho lực lượng đổ bộ, sử dụng hỏa lực mạnh của xe tăng để nhanh chóng khủng bố và đè bẹp đối phương trong khi sử dụng thiết giáp (chủ yếu là M-113) để cơ động và bảo vệ binh sỹ bộ binh mới đổ bộ từ trực thăng xuống.
 
Chiến thuật này có nhược điểm là do số quân cơ động trên chiến trường lớn nên đòi hỏi một lượng lớn máy bay trực thăng và thiết gia. Do đó, phía Hoa Kỳ phải có những bãi đáp đủ rộng cho trực thăng và bãi tập trung đủ lớn cho thiết giáp. Điều này vừa làm mất tính bí mật, cơ động của trận đánh cũng như tạo điều kiện cho QGP đánh úp bãi đáp máy bay và bãi tập kết tăng-thiết giáp, gây thiệt hại cho Mỹ-VNCH ngay từ lúc Mỹ-VNCH mới tiến hành tập kết, đổ bộ và còn chưa kịp tham chiến. Để đề phòng sự tập kích của QGP, Mỹ buộc phải sử dụng B-52 rải thảm trước khi đổ bộ.<ref>Nguyễn Văn Hiếu (1964), “Chiến tranh đặc biệt” là sự phát triển của chủ nghĩa thực dân mới và là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ ở miền Nam Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội</ref><ref>Lê Trung Thạch (1970), “Vận động của xe tăng Mĩ ở miền Nam Việt Nam”, Tin quân sự địch, Số 6, Trang 70 - 72</ref><ref>Viện kĩ thuật quân sự (1982), Tính chất hoạt động của không quân Mĩ ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.</ref>
 
== Chú thích ==
Hàng 239 ⟶ 222:
* {{chú thích sách| first1 = William | last1= Kinnard| year = 1966 |url = http://www.generalhieu.com/pleiku-2.htm | title = Pleiku Campaign, After Action Report }}
* {{chú thích sách | first1 = J.A. | last1=McChristian| year = 1966 |url = http://www.generalhieu.com/pleime_intel_J2-2.htm| title = Intelligence Aspects of Pleime/Chupong Campaign, J2/MACV}}
* {{chú thích sách |last1=Moore|first1=Harold G.|last2=Galloway|first2=Joseph L.|date=1992|title=We Were Soldiers Once ... and Young — Ia Drang: the battle that changed the war in Vietnam|publisher=Harper Perennial|location=New York, New York|isbn=0-06-097576-8}}
* {{chú thích sách |author=Nguyễn Hữu An|year =2005|title=Chiến Trường Mới, Hồi Ức|publisher=Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân|location=Hà Nội}}
* Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2005.