Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhiễm trùng sau sinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
fix ref
fix ref
Dòng 25:
Nhiễm trùng phổ biến nhất là ở [[tử cung]] và các mô xung quanh được gọi là '''puerperal sepsis''' hoặc '''postpartum metritis'''. Các yếu tố rủi ro bao gồm [[mổ lấy thai]], sự hiện diện của một số vi khuẩn như Streptococcus nhóm B trong âm đạo, vỡ màng nhầy sớm, khám âm đạo nhiều lần, lấy [[nhau thai]] bằng tay và kéo dài thời gian chuyển dạ.<ref name=W2014/><ref name=WHOBook2015>{{cite book|title=WHO recommendations for prevention and treatment of maternal peripartum infections|date=2015|publisher=World Health Organization|isbn=9789241549363|pmid=26598777|page=1|url=http://apps.who.int/iris/bitstream/10665/186171/1/9789241549363_eng.pdf}}</ref> Hầu hết các nhiễm trùng liên quan đến một số loại vi khuẩn. Chẩn đoán hiếm khi được hỗ trợ bằng cách nuôi cấy dịch âm đạo hoặc máu. Đối với những người không cải thiện tình trạng sức khỏe, có thể phải [[Hình ảnh y khoa|chụp y khoa]]. Các nguyên nhân khác của sốt sau sinh bao gồm vú sưng to, [[nhiễm trùng đường tiểu]], nhiễm trùng vết mổ ở ổ bụng hoặc cắt tầng sinh môn, và chứng tá tràng.<ref name=W2014/><ref name=WHOBook2015/>
 
Do nguy hiểm khi mổ lấy thai, tất cả phụ nữ đều nhận được khuyến cáo rằng phải dùng liều dự phòng [[kháng sinh]] như [[ampicillin]] trong thời gian phẫu thuật. Điều trị các nhiễm trùng đã được xác định bằng kháng sinh, trong đó hầu hết mọi người đều cải thiện sức khỏe trong vòng từ 2 đến 3 ngày. Ở những người có bệnh nhẹ, thuốc kháng sinh uống qua miệng có thể được sử dụng; nếu không thì khuyến cáo truyền kháng sinh qua tĩnh mạch. Kháng sinh thông thường bao gồm một liều [[ampicillin]] và gentamicin sau khi sinh, hoặc clindamycin và gentamicin với những phụ nữ phẫu thuật mổ lấy thai. Ở những người sức khỏe không được cải thiện với điều trị trên, các biến chứng khác như [[áp-xe]] có thể xuất hiện.<ref name=W2014/>
 
Vào năm 2015, đã xảy ra khoảng 11,8 triệu ca nhiễm trùng sau sinh. InTrong thếcác giớinước phát triển khoảng một đến hai phần trăm phát triển nhiễm trùng tử cung sau khi sinh. Điều này làm tăng từ 5% đến 13% trong số những người đẻ khó và năm mươi phần trăm50% với các ca mổ lấy thai trước khi sử dụng kháng sinh dự phòng.<ref name=W2014/> Vào năm 2015, các ca lây nhiễm này đã gây ra 17.900 ca tử vong, so với 34.000 ca tử vong năm 1990.<ref name="GBD2015De/><ref name=GDB2013">{{Chúcite thíchjournal|last1=GBD tạp2013 chíMortality and Causes of Death|first1=Collaborators|title=Global, regional, and national age-sex specific all-cause and cause-specific mortality for 240 causes of death, 1990–2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013.|journal=Lancet|date=17 December 2014|pmid=25530442|doi=10.1016/S0140-6736(14)61682-2|pmc=4340604|volume=385|pages=117–71}}</ref> Bệnh này là nguyên nhân của khoảng 10% số ca tử vong trong thời gian mang thai. Những mô tả đầu tiên về tình trạng này bắt đầu từ ít nhất là vào thế kỷ thứ 5 TCN trong các bài viết của [[Hippocrates]].<ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.ca/books?id=DIOmY2ROeVAC&pg=PA152|isbn=978-81-8061-472-9}}<code style="color:inherit; border:inherit; padding:inherit;">&#x7C;tựa đề=</code> trống hay bị thiếu ([[wikipedia:Help:CS1 errors#citation_missing_title|trợ giúp]])
[[Thể loại:Trang có chú thích thiếu tựa đề]]
[[Thể loại:Trang có URL không tên trong chú thích]]</ref> Những ca nhiễm trùng này là nguyên nhân gây tử vong rất phổ biến trong khoảng thời gian sinh nở từ, bắt đầu ít nhất từ thế kỷ 18 cho đến những năm 1930 khi thuốc kháng sinh được đưa vào sử dụng.<ref>{{Chú thích sách|url=https://books.google.ca/books?id=qtUzscI9_VIC&pg=PA258|isbn=978-0-8247-8673-1}}<code style="color:inherit; border:inherit; padding:inherit;">&#x7C;tựa đề=</code> trống hay bị thiếu ([[wikipedia:Help:CS1 errors#citation_missing_title|trợ giúp]])