Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cuộc di cư Việt Nam (1954)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
23janvier (thảo luận | đóng góp)
→‎Lý do chính trị: Cải cách ruộng đất năm 55 mới chính thức bắt đầu
23janvier (thảo luận | đóng góp)
Dòng 62:
 
Nhiệm vụ hòa nhập người Bắc di cư vào miền Nam buổi sơ khai không đơn thuần là trách nhiệm của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đa số người di cư là người Thiên chúa giáo nên Giáo hội Thiên chúa giáo ở miền Nam cũng phải đối phó với những thách thức gắn liền với việc đồng hóa một đoàn người Công giáo nhập cư có quy mô còn lớn hơn cả bản thân giáo hội miền Nam. Theo thống kê của Hoa Kỳ, vào năm 1954 cả Việt Nam có hơn 1,9 triệu tín đồ Thiên chúa giáo, trong đó hơn 1,4 triệu người ở miền Bắc và gần 900.000 người đã vào Nam trong khi có 140.000 người Thiên chúa giáo ở miền Nam ủng hộ Việt Minh lại di cư ra Bắc. Giáo hội miền Nam còn gặp khó khăn khi văn hóa của các tín đồ hai miền rất khác nhau. Thái độ lo sợ bị những người phi Thiên chúa giáo đe dọa và biệt lập tôn giáo của những người miền Bắc lớn hơn những người miền Nam do Pháp đã cố tình tạo ra mâu thuẫn tôn giáo ở miền Bắc nhiều hơn ở miền Nam và cũng do Nhà Nguyễn không ủng hộ Thiên chúa giáo. Ngoài những khó khăn thì Giáo hội có một thuận lợi là tất cả tín đồ đều theo một hệ thống giáo điều và nghi lễ.<ref> Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam (Calgary: Veritas Press, 1998), tập 3, trang 214</ref>
 
====Giai đoạn tạm cư====
 
Số người di cư tạm trú ở nhiều trại tạm cư trong vùng Sài Gòn. Kế hoạch định cư tính từng nhóm 1000 đến 3000 người để đưa về quê. Dân miền biển làm [[ngư nghiệp|nghề cá]] thì chuyển ra vùng duyên hải. Chính phủ Hoa Kỳ trích một số tiền viện trợ qua cơ quan USOM mua nông cụ, trâu bò và một số vật liệu xây cất để giúp người di cư, tập trung ở vùng [[Thốt Nốt|Cái Sắn]]. Trong hai năm ngân sách là 93 triệu [[Mỹ kim]] với 77.000 [[ha]] khai phá được chuyển cho 100.000 dân di cư đến canh tác. Tính đến giữa năm 1957 thì đã lập nên 319 làng di cư làm nơi định cư cho khoảng 450.000 người. Số còn lại hòa mình vào Đô thành Sài Gòn.<ref>Dacy, Douglas. ''Foreign aid, war, and economic development: South Vietnam, 1955-1975''. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 1986. Tr 2-3</ref>
 
Việc chỉ có 300 ngày để di cư trong khi số lượng người di cư rất lớn khiến chính quyền Ngô Đình Diệm phải xây 42 trung tâm tạm cư. Các trạm này sử dụng các công trình công cộng có sẵn như trại lính Pháp, nhà thờ, một số trường dòng. Hàng ngàn người đã ở trong các lều tạm ở sân bay Tân Sơn Nhất và trường đua Phú Thọ
 
====Giai đoạn chuyển sang các vùng định cư lâu dài====
 
Những người di cư sẽ được chuyển tới các vùng ven Sài Gòn để tiến hành tái định cư, chỉ một số ít tự lựa chọn điểm đến, đa phần đi theo giới tăng lữ hoặc do chính quyền Ngô Đình Diệm sắp xếp. Ngay từ tháng 8 năm 1954, chính quyền Diệm đã trao cho linh mục Pierre Phạm Ngọc Chi một khu đất 25.000 ha để cho giáo xứ Bùi Chu tái định cư ở Xuân Lộc và Biên Hòa. Với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, Diệm đã xây 40 làng mới với 2.500 dân/làng.<ref>Báo Tiếng chuông số ra ngày 30-08-1954</ref> Đối với giáo xứ Phát Diệm, chính quyền Sài Gòn và linh mục Lê Hữu Từ chủ trương đưa họ tới Gia Kiệm, tới tháng 4/1954, số dân ở đây đã là gần 500.000 người. Tới tháng 12/1955, chính quyền Sài Gòn đã thiết lập được 257 khu tái định cư. Việc thiết lập các khu tái định cư là để tránh mâu thuẫn về văn hóa và mâu thuẫn kinh tế giữa người di cư và người bản địa, đồng thời cũng giảm áp lực gia tăng dân số lên hệ thống dịch vụ sẵn có từ trước.
 
====Giai đoạn củng cố các khu tái định cư thành tiền đồn chống Cộng sản====
 
Đối với các khu tái định cư, chính quyền Sài Gòn đặt ra những mục tiêu về kinh tế, chính trị và an ninh nhất định. Ngô Đình Diệm sử dựng lực lượng người di cư để xây dựng tiềm lực kinh tế ở những nơi họ đặt chân đến. Ngô Đình Diệm muốn đây là những vùng đất trung thành với mình và sẵn sàng chống Cộng sản nhất. Những khu tái định cư thường được bố trí ở những vị trí chiến lược, cửa ngõ vào các đô thị lớn. Đặc biệt, để giữ Tây Nguyên, Ngô Đình Diệm đã tổ chức rất nhiều khu tái định cư ở gần Buôn Mê Thuột, Pleiku và Đà Lạt. Nhiều tín đồ di dân đã miễn cường thực hiện kế hoạch của Diệm do họ nhận thấy nơi ở mới điều kiện không bằng các đô thị, họ phải trực tiếp đối mặt với lực lượng của các giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo thậm chí là cả Việt Minh (Hiệp định cho phép tập hợp chính trị tại chỗ).<ref>Báo cáo của Nguyễn Sơn Duyền, đại diện của chính quyền Sài Gòn ở Tây Nguyên, ngày 08-08-1956</ref>
 
===Đặc điểm của những người miền Bắc di cư===