Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Elizabeth I của Anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Di sản: chính tả, replaced: vượt bật → vượt bậc using AWB
Dòng 164:
Việc Elizabeth thiết lập giáo hội Anh đã giúp định hình bản sắc dân tộc cho nước Anh cho đến ngày nay.<ref>Loades, 46–50.</ref><ref>Weir, 487.</ref><ref>Hogge, 9–10.</ref> Song, những người tôn vinh bà như là người anh hùng của chính nghĩa Kháng Cách đã bỏ qua sự kiện Nữ vương từ chối bác bỏ tất cả nghi thức Công giáo.<ref>The new state religion was condemned at the time in such terms as "a cloaked papistry, or mingle mangle". Somerset, 102.</ref><ref>"The problem with the 'Protestant heroine' image was that Elizabeth did not always live up to it. London Protestants were horrified in 1561 when they heard of the plan to get Spanish support for a Dudley marriage by offering concessions on religion, and it took Elizabeth almost a decade to re-establish her Protestant credentials." Haigh, 165.</ref> Các sử gia cũng ghi nhận rằng lúc ấy các tín hữu Kháng Cách sùng tín xem Đạo luật ''Settlement and Uniformity'' năm [[1559]] của Nữ vương là một sự thỏa hiệp.<ref>Haigh, 45–46, 177.</ref><ref>Black, 14–15.</ref><ref>Collinson, 28–29.</ref> Thật vậy, Elizabeth xem [[đức tin Kitô giáo|đức tin]] là một vấn đề cá nhân, và không muốn, theo cách nói của [[Francis Bacon]], "thâm nhập vào lòng và tư tưởng thầm kín của người khác".<ref>Williams, 50.</ref><ref>Haigh, 42.</ref>
 
Dù chủ trương phòng thủ trong chính sách ngoại giao, triều đại Elizabeth chứng kiến sự thăng tiến vượt bậtbậc của nước Anh trên trường quốc tế. [[Giáo hoàng]] [[Giáo hoàng Xíttô V|Xíttô V]] nhận xét về bà với sự kinh ngạc, "[Elizabeth] chỉ là một phụ nữ, bà chủ trên một nửa hòn đảo, nhưng đã làm Tây Ban Nha, Pháp, [Thánh chế La Mã], và mọi người khiếp sợ".<ref name="Sm">Somerset, 727.</ref> Trong thời trị vì của Nữ vương, nước Anh giành được lòng tự tin và quyền tự quyết trong khi cả thế giới [[Kitô giáo|Cơ Đốc giáo]] đang bị phân hóa.<ref name=autogenerated7 /><ref>Hogge, 9''n''.</ref><ref>Loades, 1.</ref> Elizabeth là người đầu tiên trong dòng họ Tudor thừa nhận rằng một quân vương chỉ có thể cai trị đất nước với sự đồng thuận của người dân.<ref>As Elizabeth's [[Lord Keeper of the Great Seal|Lord Keeper]], [[Nicholas Bacon|Sir Nicholas Bacon]], put it on her behalf to parliament in 1559, the queen "is not, nor ever meaneth to be, so wedded to her own will and fantasy that for the satisfaction thereof she will do anything...to bring any bondage or servitude to her people, or give any just occasion to them of any inward grudge whereby any tumults or stirs might arise as hath done of late days". Starkey, 7.</ref> Do đó, Nữ vương luôn hợp tác với quốc hội và các cố vấn là những người bà tin là dám nói lên sự thật – nghệ thuật trị nước mà những quân vương thuộc dòng họ Stuart đã không chịu học hỏi. Trong khi một số sử gia cho rằng bà là người may mắn,<ref name="Sm" /> Elizabeth tin rằng bà được Thiên Chúa phù trợ.<ref>Somerset, 75–76.</ref> Tự hào là một người Anh,<ref>Edwards, 205.</ref> Nữ vương tin rằng [[Thiên Chúa]], những lời khuyên chân tình, và tình yêu thần dân dành cho bà là những nhân tố xây đắp sự thành công của triều đại Elizabeth.<ref>Starkey, 6–7.</ref> Trong một lần cầu nguyện, Elizabeth dâng lời tạ ơn Thiên Chúa:
{{cquote|
Trong lúc chiến tranh và bạo loạn cùng sự ngược đãi luôn quấy nhiễu các vua chúa và các lân bang, thì triều đại tôi vui hưởng thái bình, và bờ cõi tôi là nơi ẩn náu cho hội thánh của Chúa. Tình yêu sắt son thần dân dành cho tôi khiến kẻ thù của tôi vỡ mộng.<ref name="Sm" />}}