Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đặng Dung”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Phò vua Trùng Quang: clean up, replaced: → using AWB
Dòng 4:
'''Đặng Dung''' là người xã Tả Hạ, huyện Thiên Lộc, trấn [[Nghệ An]]<ref>Chép theo [[Cao Xuân Dục]], ''[[Đại Nam]] dư địa chí ước biên''. Nhà xuất bản Văn học, 2003, tr. 233.</ref> (nay là huyện [[Can Lộc]], tỉnh [[Hà Tĩnh]]). Ông là con trai cả của Quốc công [[Đặng Tất]].
 
Theo Đặng Tộc Đại Tông Phả<ref>Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683, Tiến sĩ Ứng Quận công Đặng Đình Tướng tục biên năm 1686, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tiếp tục tục biên năm 1745, Nguyễn Văn Thành dịch, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2002.</ref>, ông tổ 4 đời của Đặng Tất là Đặng Bá Kiển vốn cư ngụ ở vùng kinh kỳ Thăng Long, sau đó di dời vào Nghệ An châu. Con trưởng củaĐặng Bá Kiển sinh ra [[Đặng Bá Tĩnh]] đỗ thám hoa đời [[nhà Trần]]. Bá Tĩnh chínhsinh ra ôngĐình nộiDực, củaĐình ĐặngDực Tất.sinh Conra trưởngTất, củaTất sinh Tĩnhra là Đặng Đình Dực chính là cha Đặng TấtDung<ref>Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 47 - 49</ref>.
==Sự nghiệp==
Dòng 15:
Năm 1407, vào tháng 10, người con thứ của vua Trần Nghệ Tông, tên là Trần Ngỗi, tự lập làm vua lên ngôi ở Tràng An, xưng là Giản Định đế. Do quân mới lập, nhà vua phải chạy vào Nghệ An, Đặng Tất lúc ấy làm Đại tri châu Hóa châu nghe tin, liền giết viên quan nhà Minh đem quân từ Hóa châu ra Nghệ An phò giúp. Đặng Tất dâng con gái cho vua Giản Định đế, sau đó được phong làm Quốc công.
Năm [[1409]], sau trận đại chiến [[Trận Bô Cô|Bô Cô]] (xã Hiếu Cổ, huyện [[Ý Yên]], thuộc tỉnh [[Nam Định]] ngày nay); "vì nghe lời khuyên của hoạn quan là Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng Trang, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, vua Giản Định Đế đem lòng ngờ vực đã giết Đặng Tất và [[Nguyễn Cảnh Chân]].<ref>Theo ''Đại Nam nhất thống chí'', đã dẫn trên.</ref>. Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân) đem binh Thuận hóa về Thanh Hóa, rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua.
 
==Phò vua Trùng Quang==
 
Trần Quý Khoáng hay Trần Quý Khoách là con Mẫn vương Trần Ngạc và là cháu [[Trần Nghệ Tông]], trước kia Quý Khoáng làm quan nhậpNhập nội thị trung. Trần Quý Khoáng lên ngôi vua ở Chỉ Là<ref>này là La Sơn, thuộc tỉnh Hà Tĩnh</ref>, đổi niên hiệu là Trùng Quang, dùng Nguyễn Súy làm Thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm Thái bảo, Đặng Dung làm Đồng bình chương sự, Nguyễn Chương làm Tư mã.<ref>Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 1998, bản điện tử, trang 341, 342</ref>
 
Lúc này Giản Định đế đang ở thành Ngự Thiên<ref>Tên huyện, tức làng Đa Cương xưa, mộ tổ nhà Trần ở đấy, cho nên gọi là Ngự Thiên; nhà Lê theo gọi tên ấy; nay đổi là Hưng Nhân thuộc tỉnh Hưng Yên.</ref>, chống nhau với nhà Minh. Trùng Quang đế sai Nguyễn Súy mang quân đến đánh úp, bắt được Giản Định đế. Mẹ của Giản Định đế là Hưng Khánh Thái hậu và bầy tôi là Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh bàn nhau khởi binh đánh úp lại Trùng Quang đế - Trần Quý Khoáng để khôi phục quyền lực cho Giản Định đế. Việc bị tiết lộ, Trùng Quang đế bắt giết Lê Tiệt và Nguyên Đỉnh, còn lại thì tha cả. Gặp khi ấy Nguyễn Súy đưa Giản Định đế đến Nghệ An, Trùng Quang đế thay mặc mũ áo thường ra đón tiếp. Trùng Quang đế bèn tôn Giản Định đế làm Thượng hoàng, cùng nhau mưu tính việc khôi phục.<ref>Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, 1998, bản điện tử, trang 343</ref>
 
=== Trận Mô Độ ===
Giản Định đế và Trùng Quang đế chia quân làm 2, Giản Định đế tiến quân đến Hạ Hồng, vua Trùng Quang tiến quân đến Bình Than, các người hùng kiệt ở các lộ đều hưởng ứng; gặp lúc Trương Phụ dẫn quân đến, Giản Định đế bỏ thuyền lên bộ, Trương Phụ chia quân đi đằng sau, bắt được giải về Kim Lăng. Cánh quân vua Trùng Quang giữ nhau với Trương Phụ ở Bình Than, chia cho Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử, vì thiếu lương thực, quân tan vỡ, vua Trùng Quang được tin, tự liệu không chống nổi, lại về Nghệ An, Trương Phụ đuổi theo, đến đâu cũng chém giết người vô số.<ref>Việt sử tiêu án, Nhà xuất bản văn sử, 1991, bản điện tử, trang 116</ref>
 
Năm 1410, vua Trùng Quang dẫn quân tiến ra bắc, thắng một số trận nhưng vì hiệu lệnh không thống nhất, quân Minh tiến đến đâu, quân Hậu Trần tan vỡ đến đó. Vua Trùng Quang lại rút binh về Nghệ An. Đầu năm 1411, vua nhà Minh sai Trương Phụ mang 2414 vệ, tổng cộng 78.400 quân (Minh sử chép 2.000400 quân) tiếp viện cho Mộc Thạnh, năm sau Trương Phụ dẫn binh vào Nghệ An., gặp Nguyễn Suý, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở [[trận Mô Độ]]. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại, thì Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị bất ngờ dẫn quân vượt biển rút chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, liền đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi. Năm 1413, Trương Phụ lại tiến đánh Nghệ An, đến đây nhà Hậu Trần phải lui vào Hóa Châu, đất cố thủ cuối cùng của nhà Hậu Trần.
 
===Trận Sái Già===