Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ chế hòa khí”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Bot: Adding {{Commonscat|Carburetors}}
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Carburetor.svg|nhỏ|240px]]<!-- hình cần dịch sang tiếng Việt -->
'''Bộ chế hòa khí''' hay '''bình xăng con''' là một dụng cụ dùng để trộn [[không khí]] với [[nhiên liệu]] theo một tỉ lệ thích hợp và cung cấp hỗn hợp này cho [[động cơ xăng]], hoạt động theo nguyên tắc hoàn toàn [[cơ học]]. Bộ phận này hiện vẫn được sử dụng trong các động cơ nhỏ, động cơ cũ hay trong các [[ô tô]] đặc biệt như [[ô tô đua]] nhỏ. Tuy nhiên, đa số các xe ô tô được sản xuất từ sau đầu [[thập niên 1980]] dùng [[hệ thống phun nhiên liệu]] được điều khiển bởi [[máy tính]] thay cho bộ chế hòa khí. Đa số các xe [[mô tô]] hiện nay vẫn dùng bộ chế hòa khí do hệ thống này nhỏ gọn, rẻ tiền và dễ sửa chữa. Nhưng từ năm [[2005]], nhiều thiết kế xe mô tô đã dùng hệ thống [[phun nhiên liệu]] điện tử.
bộ chế hoà khí muốn làm việc tốt thì phải dảm bảo được 5 tiêu chuẩn
1:chế độ khởi động
2:chế độ không tải
3:chế độ tải rung bình
4:chế độ toàn tải
5:chế độ tăng tốc
 
chế hoà khí thông thường gồm 2 loại chế
Đầu tiên, xăng được chuyển vào buồng phao (float chamber) thông qua ống dẫn đầu vào (feed pipe)và đường dẫn nhiên liệu (fuel inlet). Khi khoang chứa đã nạp đầy đến một mức độ nhất định, phao và kim chỉ van nâng lên và việc nạp nhiên liệu được ngưng lại. Khi piston chuyển động xuống dưới xi lanh, áp suất trong xi lanh giảm xuống. Áp suất của khí quyển sẽ đẩy không khí vào trong bộ chế hòa khí. Đó là nơi mà không khí sẽ được trộn với một lượng xăng thích hợp từ buồng phao để tạo ra hổn hợp xăng + không khí, tỹ lệ xăng/không khí thông thường vào khoãng 1g xăng/14,7g không khí.
+: chế 1 họng
+: chế 2 họng
chế hoà khí là bộ phận quan trọng trên xe ôtô vì vậy khi sủa chữa phải đảm bảo tính cẩn thận tránh làm rơi vỡ hoặc méo
vì chế hoà khì không phải làm bằng kim loại
 
Chu Trình làm việc của chế hoà khí
Đầu tiên, xăng được chuyển vào buồng phao (float chamber) thông qua ống dẫn đầu vào (feed pipe)và đường dẫn nhiên liệu (fuel inlet). Khi khoang chứa đã nạp đầy đến một mức độ nhất định, phao và kim chỉ van nâng lên và việc nạp nhiên liệu được ngưng lại. Khihoặc pistoncũng chuyển độngthể xuốngquan dướisát xiqua lanh,mát ápthần suấttrên trongchế hoà khí xi lanh giảm xuống. Áp suất của khí quyển sẽ đẩy không khí vào trong bộ chế hòa khí. Đó là nơi mà không khí sẽ được trộn với một lượng xăng thích hợp từ buồng phao để tạo ra hổn hợp xăng + không khí, tỹ lệ xăng/không khí thông thường vào khoãng 1g xăng/14,7g không khí.
 
Nếu lượng xăng> 1g/14,7g không khí hổn hợp được gọi là hổn hợp giàu, được dùng khi động cơ khởi động hoặc đang tăng ga, tăng tải. Nếu động cơ luôn hoạt động trong trạng thái hổn hợp giàu sẽ sinh ra hiện tượng đống muội đen trong buồng đốt, bugi và ống xã, hiệu suất sử dụng nhiên liệu giảm, "ăn xăng".
Hàng 8 ⟶ 21:
Nếu lượng xăng< 1g/14,7g không khí hổn hợp được gọi là hổn hợp nghèo, sinh ra do điều chỉnh các thông số bị sai lệch, các đường nạp xăng bị bẩn hoặc tắt. Nếu động cơ hoạt động trong trạng thái hổn hợp nghèo công suất giảm, lực moment giảm (động cơ bị yếu) sinh ra hiện tượng đóng trắng trong buồng đốt và bugi.
 
Lượng nhiên liệu được phun sương (atomizedsau fuel)khi được dẫnhoa vàotrộn trongvới xi lanhnhau được van tiết lưu còn gọi là bướm ga (throttle valve) điều chỉnh. Ở trong động cơ xe ô tô, van tiết lưu được đóng và mở nhờ sự vận hành của bàn đạp tăng tốc.
 
== Tham khảo ==