Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tri Tôn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 119:
#Huyện Tri Tôn gồm có các xã [[Châu Lăng, Tri Tôn|An Lạc]], [[Lê Trì, Tri Tôn|An Lập]], [[An Tức, Tri Tôn|An Ninh]], [[Ô Lâm, Tri Tôn|An Phước]], [[Lương Phi, Tri Tôn|An Thành]], [[Vĩnh Phước, Tri Tôn|Ba Chúc]], [[Cô Tô, Tri Tôn|Cô Tô]], [[Lạc Quới, Tri Tôn|Lạc Quới]], [[Núi Tô, Tri Tôn|Núi Tô]], [[Tà Đảnh, Tri Tôn|Tân Cương]], [[Tân Tuyến, Tri Tôn|Tân Tuyến]], [[Vĩnh Gia, Tri Tôn|Vĩnh Gia]] và thị trấn [[Tri Tôn (thị trấn)|Tri Tôn]] (trước là thị trấn Bảy Núi).
#Ranh giới giữa hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên quy định như sau: Bắt đầu từ cột mốc số 115 (biên giới với Cam-pu-chia) thẳng hướng đông nam đến trụ đá số 1 trên lộ Lê Trì - Tịnh Biên (cách ngã ba Sóc Tức 150 mét) rồi quẹo xuống phía nam song song với lộ Tịnh Biên – Tri Tôn theo đường mòn về phía đông ven chân núi Nam Quy vòng lên phía bắc đi thẳng đến ngã tư Kinh Tri Tôn - Mạc Cần Dưng (cầu sắt số 13) theo giữa lòng kinh đến giáp ranh huyện Châu Thành (cầu sắt số 10).
Địa bàn các huyện Tịnh Biên và Tri Tôn sau khi được tái lập khác hẳn với trước năm 1977.
*Nghị định 60/1995/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 1995 của Chính phủ thành lập xã Lương An Trà từ ấp Cây gòn xã Lương Phi, một phần của xã An Tức, xã Ô Lâm. Xã có diện tích 8.903 ha, dân số 5.579 người.
* Nghị định '''119/2003/NĐ-CP'''<ref name="119NDCP">[http://laws.dongnai.gov.vn/2001_to_2010/2003/200310/200310170001 Nghị định 119/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Chợ Mới, Tri Tôn, Tịnh Biên và Phú Tân, tỉnh An Giang]</ref> ngày 17 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ, thành lập thị trấn [[Ba Chúc (thị trấn)|Ba Chúc]] trên cơ sở 2.056 ha diện tích tự nhiên và 13.122 người của xã Ba Chúc. Đổi tên xã Ba Chúc thành xã [[Vĩnh Phước, Tri Tôn|Vĩnh Phước]].