Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim Quan Già Da”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Armbrust (thảo luận | đóng góp)
n (GR) File renamed: File:Pressapochista17.jpgFile:Duck-shaped pottery 오리형 토기.jpg File renaming criterion #2: To change from a meaningless or ambiguous name to a name that describes what t…
n clean up, replaced: → (7) using AWB
Dòng 9:
'''Kim Quan Già Da''' (43 - 532), cũng gọi là '''Bản Già Da''' (본가야, 本伽倻, Bon-Gaya) hay '''Giá Lạc Quốc''' (가락국, 駕洛國, Garakguk), là thành bang lãnh đạo của liên minh [[Già Da]] và thời [[Tam Quốc (Triều Tiên)|Tam Quốc]] tại [[Triều Tiên]]. Thành bang này được cho là nằm quanh thành phố [[Gimhae]], [[Gyeongsang Nam]] ngày nay, gần cửa [[sông Nakdong]]. Do vị trí địa lý của mình, thành bang này đã đóng vai trò chủ đạo trong các vấn đề khu vực kể từ thời Biện Hàn đến khi kết thúc liên minh Già Da.
 
Theo '''[[Tam quốc di sự]]''', Kim Quan Già Da được thành lập khi [[Thủ Lộ Vương]] (Suro) thống nhất 9 thôn làng dưới 9 sự cai quản của mình. Phu nhân của ông là [[Hứa Hoàng Ngọc]] (Heo Hwang-ok), hôn lễ tổ chức vào năm 48 SCN, bà được cho là công chúa của một vương quốc tại vùng [[Ayodhya]] thuộc [[Ấn Độ]] ngày nay,<ref>{{chú thích web | url = http://www.korea.net/news/issue/attach/PDF%20Format_india_2.pdf | tiêu đề = Error 500(Server Error) | author = | ngày = | ngày truy cập = 30 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> mặc dù điều này có thể đã được thêm vào trong thời kỳ Phật giáo sau đó.{{fact|date = ngày 7 tháng 1 năm 2013}}
 
Trong thời kỳ đầu của lịch sử Già Da (Gaya), có một vài làn sóng nhập cư từ miền bắc, bao gồm [[Cổ Triều Tiên]], [[Phù Dư Quốc]] và [[Cao Câu Ly]], họ đến và hòa nhập với cư dân sở tại và khơi dậy sự phát triển văn hóa và chính trị. Một sự biến đổi mạnh mẽ trong cách thức tổ chức tang lễ đã được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ có niên đại vào cuối thế kỷ 3 SCN khi khi những cuộc di cư này đã diễn ra. Hình thức mai táng có liên hệ với các dân tộc du mục Bắc Á, như các ngôi mộ cho ngựa được làm khi chúng chết, việc thay thế đột ngột hình thức tang lễ của tầng lớp thượng lưu. Ngoài ra, các bằng chứng chỉ ra sự tồn tại của việc phá hủy các ngôi mộ trước đó một cách có hệ thống. Vào đầu thập kỷ 1990, một tổ hợp lăng mộ hoàng gia đã được khai quật tại Daeseong-dong, [[Gimhae]], được cho là của Kim Quan Già Da nhưng dường như được sử dụng từ thời Biện Hàn.
Dòng 19:
!rowspan="2"|#
!colspan="2"|[[Miếu hiệu]]
!rowspan="2"|Thời gian cai trị<ref>[[Il-yeon]]: ''Samguk Yusa: Legends and History of the Three Kingdoms of Ancient Korea'', translated by Tae-Hung Ha and Grafton K. Mintz. Epilogue, page 354. Silk Pagoda (2006). ISBN 1596543485 - note: the dates for Geojilmi's reign go there until 344</ref>
|-
!Hán Việt
Dòng 84:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
*Cheol, S.K. (2000). Relations between Kaya and Wa in the third to fourth centuries AD. ''Journal of East Asian Archeology 2''(3-4), 112-122.
*Il,yeon. Garak-gukgi chronicles, [[Samgukyusa]]