Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lục quân Lục địa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n robot Thêm: lt:Kontinentinė armija |
n Qbot: sửa lỗi chính tả |
||
Dòng 6:
Khi [[Chiến tranh Cách mạng Mỹ]] bắt đầu với [[Các trận đánh Lexington và Concord]] vào tháng tư năm 1775, các nhà cách mạng thực dân không có một quân đội. Trước đó, mỗi thuộc địa đều lệ thuộc vào dân quân được thành lập như những chiến sĩ-công dân bán thời gian vì mục đích bảo vệ địa phương. Khi cẳng thẳng với Vương quốc Anh gia tăng trong những năm dẫn đến chiến tranh, những người thực dân bắt đầu cải cách các nhóm dân quân để chuẩn bị cho cuộc xung đột tiềm ẩn. Việc huấn luyện dân quân gia tăng sau khi Vương quốc Anh thông qua Các Đạo luật bất nhân nhượng (''Intolerable Acts'') vào năm 1774. Những người thực dân như [[Richard Henry Lee]] đã đề nghị thành lập một lực lượng dân quân quốc gia nhưng [[Đệ nhất Quốc hội Lục địa]] bác bỏ ý tưởng này.<ref>Wright, ''Continental Army'', 10–11.</ref>
Sau trận Lexington và Concord, hàng ngàn dân quân từ [[Tân Anh Cát Lợi]] tập hợp lại để chống lại cuộc vây
Bốn [[thiếu tướng]] ([[Artemas Ward]], [[Charles Lee (tướng)|Charles Lee]], [[Philip Schuyler]], và [[Israel Putnam]]) và tám [[chuẩn tướng]] ([[Seth Pomeroy]], [[Richard Montgomery]], [[David Wooster]], [[William Heath]], [[Joseph Spencer]], [[John Thomas (tướng)|John Thomas]], [[John Sullivan]], và [[Nathanael Greene]]) được bổ nhiệm trong thời gian vài ngày.
[[Tập tin:Portrait of George Washington.jpeg|phải|nhỏ|Tướng [[George Washington]] được bổ nhiệm là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa vào ngày [[15 tháng 6]] năm [[1775]].]]
Khi Quốc hội Lục địa gia tăng đảm nhận thêm trách nhiệm và tình hình của một nghi viện của một quốc gia có chủ quyền thi vai trò của Lục quân Lục địa là chủ đề của cuộc tranh luận khá nổi bật. Duy trì một lục quân hiện dịch đã gây nên sự phản cảm trong số người Mỹ nhưng mặt khác vì điều kiện cần thiết của một cuộc chiến chống người Anh nên cần có sự kỷ luật và sự tổ chức của một lục quân hiện đại. Kết quả là lục quân đã trải qua nhiều giai đoạn
Binh sĩ trong Lục quân Lục địa là các công dân tình nguyện phục vụ trong lục quân (nhưng được trả lương). Có những thời điểm khác nhau trong suốt cuộc chiến, thời gian tại ngũ chuẩn kéo dài từ một đến 3 năm.
Dòng 18:
* Lục quân Lục địa năm 1775 gồm lục quân [[Tân Anh Cát Lợi]] ban đầu được Washington tổ chức thành ba [[sư đoàn]]. Ngoài ra còn có 10 [[trung đoàn]] của trung tướng Philip Schuyler được phái sang xâm nhập [[Canada]].
* Lục quân Lục địa năm 1776 được tái tổ chức sau thời kỳ nhập ngũ đầu tiên của các binh sĩ thuộc lục quân năm 1775 hết hạn. Washington đệ trình những kiến nghị đến Quốc hội Lục địa ngay sau khi ông nhận vị trí tổng tư lệnh nhưng những kiến nghị này mất một khoảng thời gian để được cứu xét và thực hiện. Mặc dù cố gắng mở rộng phạm vi tuyển quân ra ngoài vùng Tân Anh Cát Lợi nhưng lục quân năm 1776 vẫn nghiêng về vùng đông bắc cả về mặt trọng tâm địa lý và thành phần binh sĩ.
* Lục quân Lục địa năm 1777-80 là kết quả của một số cải cách và quyết định chính trị tới hạn khi
* Lục quân Lục địa năm 1781-82 chứng kiến cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất bên phía lực lượng Mỹ. Quốc hội bị phá sản nên việc thay thế các binh sĩ sắp hết hạn quân dịch 3 năm gặp nhiều khó khăn. Sự ủng hộ của dân chúng dành cho chiến tranh đang ở mức độ thấp và Washington phải dập tắc các cuộc phản loạn tại cả hai quân khu [[Pennsylvania]] và [[New Jersey]]. Quốc hội bỏ phiếu cắt giảm tài chính cho lục quân nhưng dù thế Washington vẫn lãnh đạo giành được các chiến thắng quan trọng mang tính chiến lược.
* Lục quân Lục địa năm 1783-84 được thừa kế bởi [[Lục quân Hoa Kỳ]] mà vẫn còn hoạt động đến ngày nay. Khi hòa bình đến gần với người Anh, phần đông các trung đoàn được giải tán một cách có trật tự.
Dòng 24:
Ngoài các binh sĩ Lục quân Lục địa chính quy, các đơn vị địa phương quân, được tuyển mộ và tài trợ bởi các tiểu bang/thuộc địa, đã tham chiến trong suốt thời gian chiến tranh. Đôi khi các đơn vị địa phương quân được kêu gọi để hỗ trợ và tăng cường cho lục quân chính quy trong suốt các cuộc hành quân.
Trách nhiệm tài chánh cung cấp tiền lương, thực phẩm,
== Các chiến dịch ==
Dòng 37:
Lục quân Lục địa được hợp nhất về mặt chủng tộc, một điều mà [[Lục quân Hoa Kỳ]] sau đó không có được cho đến [[Đệ nhị Thế chiến]]. Những người Mỹ nô lệ gốc châu Phi được hứa hẹn tự do nếu phục vụ trong lục quân tại Tân Anh Cát Lợi. Họ chiếm 1/5 quân số của Lục quân Lục địa miền Bắc.<ref>[[Liberty!|Liberty! The American Revolution]] (Documentary) Episode II:''Blows Must Decide: 1774-1776''. ©1997 Twin Cities Public Television, Inc. ISBN 1-4157-0217-9</ref>
Suốt thời gian tồn tại, Lục quân Lục địa gặp nhiều vấn đề như tiếp vận tồi tệ, thiếu huấn luyện, tuyển quân ngắn hạn, đối nghịch giữa các tiểu bang, và Quốc hội Lục địa không có khả năng áp chế các tiểu bang cung ứng lương thực, tiền bac hay tiếp liệu. Ban đầu binh sĩ được tuyển mộ với thời gian phục vụ là 1 năm. Phần lớn họ là những người tự nguyện vì lòng yêu nước. Nhưng khi chiến tranh lan rộng, tiền thưởng để gia nhập lục quân và các hình thức khuyến khích khác được dùng đến. Hai cuộc nổi loạn chính
Lục quân gia tăng hiệu quả và tỉ lệ thành công qua một loạt các thử nghiệm và sai lầm, thường đi cùng với thiệt hại nhân mạng nặng nề. Tướng Washington và các sĩ quan nổi bật khác là những chỉ huy chủ đạo trong việc duy trì thống nhất, học tập và ứng dụng, và giữ
Gần cuối chiến tranh, Lục quân Lục địa được tăng cường bởi một lực lượng viễn chinh của [[Pháp]] do tướng [[Jean-Baptiste Donatien de Vimeur]] chỉ huy và một hải đội của [[Hải quân Pháp]]. Cuối mùa hè năm 1781, bộ phận chính của lục quân di chuyển về miền nam đến [[Virginia]] để họp mặt với hạm đội Tây Ấn của Pháp dưới quyền chỉ huy của [[đô đốc]] [[Comte de Grasse]]. Việc này dẫn đến [[cuộc bao vây Yorktown]], [[trận Chesapeake]] có tính quyết định, và việc quân đội Anh ở miền nam đầu hàng. Đến đây coi như đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến trên bộ tại Mỹ mặc dù Lục quân Lục địa còn quay trở lại phong tỏa quân đội Anh ở miền bắc tại New York cho đến khi hiệp ước hòa bình có hiệu lực hai năm sau đó.
Dòng 46:
Một lực lượng còn lại vẫn đóng quân tại [[West Point, New York]] và một số tiền đồn biên giới cho đến khi Quốc hội Lục địa thành lập [[Lục quân Hoa Kỳ]] bằng nghị quyết [[3 tháng 6]] năm [[1784]].
Kế hoạch chuyển tiếp thành một lực lượng thời bình bắt đầu vào tháng tư năm 1783 theo lời yêu cầu của một hội đồng quốc hội do [[Alexander Hamilton]] làm chủ tọa. Tổng tư lệnh thảo luận vấn đề với các sĩ quan chính trước khi trình lên bản báo cáo chính thức của lục quân vào ngày 2 tháng 5. Đáng nói ở đây là có một sự đồng thuận rộng
Mặc dù quốc hội từ chối bỏ phiếu quyết định về việc thành lập lục quân thời bình vào ngày 12 tháng 5, quốc hội đã đề cập đến nhu cầu cần thiết là duy trì một số quân hiện dịch cho đến khi người Anh rút ra khỏi [[Thành phố New York]] và các tiền đồn biên giới. Các đại biểu quốc hội yêu cầu Washington sử dụng các binh sĩ được tuyển mộ theo thời hạn quân dịch định kỳ làm quân đồn trú tạm thời. Một toán quân như thế từ West Point đến tái chiếm New York mà không
Quốc hội ra tuyên bố vào ngày [[18 tháng 10]] năm 1783, chấp thuận việc giảm quân của Washington. Ngày 2 tháng 11, Washington cho đăng Sắc lệnh từ biệt của ông tại các tờ báo của [[Philadelphia]] để phân phát khắp đất nước đến những binh sĩ
Washington nói lời từ biệt đến các sĩ quan còn lại của mình vào ngày [[4 tháng 12]] tại Quán rượu Fraunces trong Thành phố New York. Ngày 23 tháng 12, ông xuất hiện trong quốc hội, lúc đó được nhóm hợp tại Annapolis, và trao lại chức vụ tổng tư lệnh. Quốc hội kết thúc Chiến tranh Độc lập Mỹ ngày 14 tháng 1 năm 1784 bằng việc phê chuẩn hiệp định hòa bình được ký kết tại [[Paris]] ngày 3 tháng 9.
|