Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại tá”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n robot Thêm: simple:Colonel |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 10:
[[Việt Nam]] thời thuộc Pháp thường gọi Đại tá hoặc Trung tá Quân đội Pháp một cách nôm na là '''quan năm''', vì quân hàm đều có 5 vạch (còn gọi là lon, gốc từ chữ ''galon'' trong [[tiếng Pháp]]). Quan năm đại tá có năm vạch cùng màu nên còn được gọi là quan năm lon vàng, còn quan năm trung tá có 2 vạch khác màu nên còn gọi là quan năm khoanh trắng. Xem bảng so sánh [http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_h%C3%A0m_Qu%C3%A2n_%C4%91%E1%BB%99i_Vi%E1%BB%87t_Nam_v%C3%A0_m%E1%BB%99t_s%E1%BB%91_qu%E1%BB%91c_gia].
Ở Việt Nam, Trong Quân đội Việt Nam Cộng Hoà trước lúc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào năm 1963 không có quân hàm chuẩn tướng các sỉ quan [[ Đại tá]] thường đảm nhiệm các chức vụ Sư đoàn trưởng hoặc Sư đoàn phó, có khi là Tư lệnh Quân đoàn
Theo Luật sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam (1999) thì Đại tá là bậc quân hàm cao nhất của quân nhân giữ chức vụ Sư đoàn trưởng, Tỉnh đội trưởng và tương đương, do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định phong.
Trong hệ thống quân hàm [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]], các quân hàm sĩ quan dưới cấp Đại tá gồm:
Hàng 38 ⟶ 40:
==Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975)==
Một số Đại tá tiêu biểu:
*
*[[Hồ Ngọc Cẩn]], Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh [[Chương Thiện]].
*[[Bùi Dzinh]],Tư lệnh Sư đoàn 9 bộ binh. (01 tháng 01 năm 1962 - 07 tháng 11 năm 1963 ).
==Xem thêm==
|