Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thủ Tiệp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Thân thế: thêm liên kết ngoài
Dòng 8:
Theo ''Khâm định Việt sử Thông giám cương mục'', Nguyễn Thủ Tiệp còn một tên hiệu nữa là '''Ba An quân''' (巴安君), mình dài tiếng to, ai nghe thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm (Lôi Công). Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là ''Lệnh Công'', đóng giữ huyện [[Tiên Du]], sau đánh đuổi Thứ sử [[Dương Huy]], lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là ''Vũ Ninh vương'', giống tên hiệu một vị vua trong thời kì Tam Quốc Triều Tiên.<ref>Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình - Trương Đình Tưởng, Nhà xuất bản Thế giới tr. 36</ref>
 
Theo thần phả và theo nhà nghiên cứu [[Nguyễn Danh Phiệt]], thì Nguyễn Thủ Tiệp cùng với 2 sứ quân khác là [[Nguyễn Khoan]] và [[Nguyễn Siêu]] là 3 anh em, tổ tiên vốn là người [[Phúc Kiến]] di cư vào [[Tĩnh Hải quân]]<ref>Nguyễn Danh Phiệt, "Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước", Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1990. tr 29, 30, 33</ref>. Về ba anh em sứ quân họ Nguyễn: [[Nguyễn Khoan]], Nguyễn Thủ Tiệp, [[Nguyễn Siêu]], theo thần tích xã Văn Uyên và xã Đông Phù Liệt, [[Thanh Trì]], [[Hà Nội]] thì họ là cháu của [[Nguyễn Hãng]] – một danh tướng Bắc triều. Con của Nguyễn Hãng là Nguyễn Nê đem quân sang nước Việt đòi [[Họ Khúc (lịch sử Việt Nam)|họ Khúc]] triều cống.<ref>[http://baobacninh.com.vn/news_detail/94052/xanh-tham-nem-dong.html Xanh thắm Ném Đông]</ref>
 
Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt sinh ra ba con trai vào các năm 906, 908 và 924. Sau khi Nguyễn Nê chết, ba anh em tranh nhau giữ binh quyền, theo mẹ ở nước Việt gây nghiệp, người nào cũng nhiều của cải, nhiều quân quyền. Cũng như các anh em của mình, ông cũng là thủ lĩnh địa phương thời [[Ngô Quyền]], chiếm giữ vùng [[Tiên Du]] ([[Bắc Ninh]]) vào khoảng năm 945.<ref>Nguyễn Bạt Tụy 1954: Tên người Việt Nam. - In trong: tập kỷ yếu hội Khuyến Học Việt Nam, Sài Gòn, tr49-50.</ref>