Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Nevada (BB-36)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TVT-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng; sửa cách trình bày
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
Dòng 65:
== Thiết kế và chế tạo ==
=== Thiết kế ===
[[Tập tin:USS Nevada.svg|thumbnhỏ|lefttrái|Sơ đồ chiếc ''Nevada'' trước khi được cải tạo năm 1927]]
[[Tập tin:USS Nevada (BB-36) specs.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|Sơ đồ chiếc ''Nevada'' sau khi được sửa chữa và hiện đại hóa năm 1942, hình của Cục tình báo Hải quân Mỹ.]]
Là chiếc thiết giáp hạm đầu tiên thuộc thế hệ thứ hai<ref name=AmerBB63>Morison and Polmar (2003), trang 63</ref> và cũng là chiếc đầu tiên thuộc loại "Siêu-Dreadnought" của Hải quân Mỹ, ''Nevada'' được các sử gia hiện tại mô tả như là "cách mạng"<ref name=AmerBB63/><ref>Gardiner and Gray (1984), trang 115</ref> và "tiên tiến như chiếc [[HMS Dreadnought (1906)|''Dreadnought'']] vào thời của nó"<ref name=Worth290>Worth (2002), trang 290</ref>. Vào lúc nó hoàn thành vào năm [[1916]],<ref>Mặc dù ''Nevada'' được hạ thủy vào năm [[1914]], việc chế tạo chỉ được hoàn tất vào năm [[1916]]. Đối với các con tàu lớn, ụ tàu thường chỉ được sử dụng cho những công việc cần thiết trên bờ cho đến khi thân tàu hoàn tất; và sau khi được cho hạ thủy, những việc trang bị còn lại được tiếp tục thực hiện cho đến khi hoàn thành, trong khi ụ tàu sẽ được dành chỗ cho một con tàu khác.</ref> báo ''[[The New York Times|New York Times]]'' nhấn mạnh rằng nó là "chiếc thiết giáp hạm vĩ đại nhất đang hoạt động"<ref name="Sea Fighter"/> vì nó lớn hơn nhiều so với những chiếc thiết giáp hạm Mỹ đương thời: lượng rẽ nước của nó gần gấp ba lần so với chiếc thiết giáp hạm cũ thế hệ Tiền-Dreadnought [[USS Oregon (BB-3)|''Oregon'']] (1890), gần gấp hai lần so với chiếc [[USS Connecticut (BB-18)|''Connecticut'']] (1904), và nặng hơn gần 8.000 tấn so với một trong những chiếc dreadnought đầu tiên, [[USS Delaware (BB-28)|''Delaware'']], chỉ mới được chế tạo bảy năm trước chiếc ''Nevada''.<ref name="Sea Fighter">{{Cite news| date =16 tháng 10 năm 1915| title = Sea Fighter ''Nevada'' Ready For Her Test| work= The New York Times| page = 12| url =http://query.nytimes.com/mem/archive-free/pdf?_r=1&res=9800EEDB1239E333A25755C2A9669D946496D6CF&oref=slogin|format=PDF}}</ref>
 
Dòng 78:
 
=== Chế tạo và chạy thử máy ===
[[Tập tin:USS_Nevada_(BB-36)_during_running_trials.jpg|thumbnhỏ|rightphải|''Nevada'' trong khi đang chạy thử máy vào đầu năm [[1916]].]]
 
Kế hoạch chế tạo ''Nevada'' được thông qua bởi một đạo luật của [[Quốc hội Hoa Kỳ|Quốc Hội]] vào ngày [[4 tháng 3]] năm [[1911]]. Hợp đồng chế tạo được giao cho [[Fore River Shipbuilding Company]] vào ngày [[22 tháng 1]] năm [[1912]] với tổng trị giá 5.895.000 Đô la Mỹ<ref>5.895.000 Đô la lúc đó tương đương với khoảng 130 triệu Đô la hiện nay. Tham khảo [http://www.measuringworth.com/uscompare/# Measuring Worth].</ref> (không bao gồm vỏ giáp và vũ khí), và thời gian chế tạo được dự trù lúc ban đầu là 36 tháng. Một hợp đồng thứ hai được ký kết vào ngày [[31 tháng 7]] năm [[1912]] với một khoảng tiền 50.000 Đô la<ref>50.000 Đô la lúc đó tương đương với khoảng 1,1 triệu Đô la hiện nay. Tham khảo [http://www.measuringworth.com/uscompare/# Measuring Worth].</ref> chi phí bổ sung cho bộ hộp số chạy đường trường cho mỗi trục cánh quạt; và hợp đồng này cũng kéo dài thời gian chế tạo thêm năm tháng.<ref name="Naval Engineers"/> Lườn của nó được đặt vào ngày [[4 tháng 11]] năm [[1912]], và đến ngày [[12 tháng 8]] năm [[1914]], con tàu được hoàn thành đến 72,4%.<ref>{{Cite news| date = 5 tháng 11 năm 1915| title = Warships Near Completion; The ''Nevada'' and the ''Oklahoma'' almost Three-fourths built| work= The New York Times| page = 8| url = http://query.nytimes.com/mem/archive-free/pdf?_r=1&res=9400E7DB1430E733A25751C1A96E9C946596D6CF&oref=slogin|format=PDF}}</ref> ''Nevada'' được hạ thủy vào ngày [[11 tháng 7]] năm [[1914]]; nó được đỡ đầu bởi Eleanor Anne Seibert, cháu gái của [[Thống đốc]] tiểu bang [[Nevada]] [[Tasker Oddie]] và là một hậu duệ của [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ|Bộ trưởng Hải quân]] đầu tiên của Hoa Kỳ [[Benjamin Stoddert]].<ref name=DANFS/><ref name="Launch New Dreadnought"/> Buổi lễ hạ thủy có sự tham dự của nhiều quan chức chính phủ nổi bật, bao gồm Thống đốc Oddie, Thống đốc bang [[Massachusetts]] [[David I. Walsh]], Nghị sĩ bang [[Nevada]] [[Key Pittman]], Bộ trưởng Hải quân [[Josephus Daniels]] và Phụ tá Bộ trưởng [[Franklin D. Roosevelt]],<ref name="Launch New Dreadnought"/> người sẽ trở thành [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] thứ 32 của Hoa Kỳ.
Dòng 86:
== Lịch sử hoạt động ==
=== [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ nhất]] ===
[[Tập tin:USS Nevada (BB-36) during WWI.jpg|thumbnhỏ|rightphải|Phần đuôi chiếc ''Nevada'' trong giai đoạn Thế Chiến thứ nhất.]]
Sau khi được trang bị tại xưởng hải quân Boston và New York, ''Nevada'' gia nhập [[Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Đại Tây Dương]] tại [[Newport, Rhode Island]] vào ngày [[26 tháng 5]] năm [[1916]]. Trước khi Hoa Kỳ tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế Chiến thứ nhất]], nó thực hiện nhiều chuyến đi huấn luyện và thực hành tại vùng biển ngoài khơi căn cứ của nó ở [[Norfolk, Virginia]], hướng về phía Nam đến tận vùng biển [[Vùng Caribe|Caribbe]] trong những chuyến đi này.<ref name="bonner102"/> Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào năm [[1917]], nhưng chiếc thiết giáp hạm mới không được gửi sang bên kia bờ Đại Tây Dương do hoàn cảnh thiếu nhiên liệu dầu đốt tại Anh.<ref>Miller (1997), trang 185</ref> Thay vào đó, bốn chiếc thiết giáp hạm đốt than ([[USS Delaware (BB-28)|''Delaware'']], [[USS Florida (BB-30)|''Florida'']], [[USS Wyoming (BB-32)|''Wyoming'']] và [[USS New York (BB-34)|''New York'']]) được lệnh rời Hoa Kỳ tham gia [[Hạm đội Grand Anh Quốc]] vào ngày [[25 tháng 11]] năm [[1917]]; chúng đến nơi ngày [[7 tháng 12]], và được đặt tên là Hải đội Thiết giáp hạm 6 của Hạm đội Grand.<ref>{{cite web | title = DANFS Delaware | url = http://hazegray.org/danfs/battlesh/bb28.htm | short = yes }}</ref><ref>{{cite web | title = DANFS Florida | url = http://hazegray.org/danfs/battlesh/bb30.htm | short = yes }}</ref><ref>{{cite web | title = DANFS Wyoming | url = http://hazegray.org/danfs/battlesh/bb32.htm | short = yes }}</ref><ref>{{cite web | title = DANFS New York | url = http://hazegray.org/danfs/battlesh/bb34.htm | short = yes }}</ref> Chiếc thiết giáp hạm thứ năm [[USS Texas (BB-35)|''Texas'']] phải được sửa chữa sau khi bị mắc cạn tại [[đảo Block]], khiến phải trì hoãn việc khởi hành của con tàu đến tận ngày [[30 tháng 1]] năm [[1918]], và cuối cùng nó đến được Scotland vào ngày [[11 tháng 2]].<ref>{{cite web | title = DANFS Texas | url = http://hazegray.org/danfs/battlesh/bb35.htm | short = yes }}</ref> Phải đến tận ngày [[13 tháng 8]] năm [[1918]], ''Nevada'' mới rời Mỹ sang Anh Quốc,<ref name=DANFS/> trở thành chiếc tàu chiến Mỹ cuối cùng tham gia hạm đội.<ref name=ovation>{{Cite news| date = 27 tháng 12 năm 1918| title = Ovation to Sea Fighters; Harbor Echoes With Greetings as Our Ships Steam In | work= The New York Times| page = 1 và 4| url = http://query.nytimes.com/mem/archive-free/pdf?res=9D01E1D91339E13ABC4F51DFB4678383609EDE|format=PDF}}</ref>
 
Dòng 94:
 
=== Những năm giữa hai cuộc thế chiến ===
[[Tập tin:USS_Nevada_(BB-36)_in_drydock.jpg|thumbnhỏ|rightphải|''Nevada'' trong ụ tàu tại [[Trân Châu Cảng]], khoảng năm 1935]]
Giữa hai cuộc thế chiến, ''Nevada'' phục vụ cho cả hạm đội [[Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Đại Tây Dương]] và [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ|Thái Bình Dương]].<ref name=DANFS/> Cho dù ban đầu được trang bị 21 khẩu pháo [[pháo 127 mm (5")/51 caliber|127 mm (5")/51 caliber]] để phòng thủ chống tàu khu trục đối phương,<ref name="USN Ship Types"/> số pháo này được giảm xuống còn 12 khẩu vào năm [[1918]]<ref name="Breyer">Breyer (1973), trang 210</ref> do các vị trí phía trước và phía sau bị ướt quá mức.<ref name="USN Ship Types"/>
 
Dòng 102:
 
=== Tấn công Trân Châu Cảng ===
[[Tập tin:Pearlmap2.png|thumbnhỏ|rightphải|Sơ đồ vị trí các con tàu và các cơ sở của Trân Châu Cảng trong cuộc tấn công.]]
Vào dịp cuối tuần [[6 tháng 12|6]]–[[7 tháng 12]], tất cả các thiết giáp hạm của [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Thái Bình Dương]] đều buông neo trong cảng lần đầu tiên kể từ ngày [[4 tháng 7]]. Thông thường chúng được "luân phiên" nhau nghỉ ngơi trong cảng: sáu chiếc sẽ ra khơi cùng với lực lượng đặc nhiệm thiết giáp hạm của [[Phó Đô đốc]] [[William S. Pye]], trong khi vào tuần lễ kế tiếp sẽ đến lượt lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của Phó Đô đốc [[William Halsey, Jr.]]. Tuy nhiên, vì Halsey không thể cho những chiếc thiết giáp hạm tốc độ chậm chạp 31,5 km/h (17 knot)<ref name=note>Đây là tốc độ di chuyển đường trường thông thường chứ không phải tốc độ nhanh nhất có thể.</ref> đi cùng những tàu sân bay của ông với tốc độ 55,5 km/h (30 knot) <ref name=note/> trong chuyến đi tăng cường thêm máy bay tiêm kích cho lực lượng Thủy quân Lục chiến trên [[đảo Wake Island]]; trong khi đến lượt lực lượng của Pye được nghỉ ngơi trong cảng, nơi "được coi là an toàn", nên tất cả các thiết giáp hạm đều buông neo vào buổi sáng hôm đó.<ref>Lord (2001), trang 1–2</ref> Khi mặt trời đã nhô lên bên trên chiếc ''Nevada'' và dàn nhạc của con tàu đang cử bài "Morning Colors", thì những chiếc máy bay đã xuất hiện ở chân trời, mở màn cho trận [[trận Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]].<ref>{{cite web | title = History of the Pacific Fleet Band | url = http://web.archive.org/web/20020202153340/http://www.cpf.navy.mil/pages/band/history.htm | publisher = U.S. Navy (Pacific Fleet) | year = 2002 | accessdate=13 tháng 10 năm 2008 |dateformat=dmy }}</ref>
 
Dòng 111:
Các đám cháy xăng bùng phát chung quanh tháp súng số 1 có thể đã gây ra những hư hại nghiêm trọng nếu như các hầm pháo chính không trống rỗng. Nhiều ngày trước khi cuộc tấn công diễn ra, tất cả các khẩu đội pháo 356 mm (14 inch) trên những chiếc thiết giáp hạm được thay thế những đầu đạn tiêu chuẩn bởi những đầu đạn nặng hơn, cho phép có độ đâm xuyên tốt hơn và chứa một lượng thuốc nổ lớn hơn, đánh đổi với việc có tầm bắn bị giảm đi đôi chút. Tất cả các đầu đạn và thuốc nổ cũ được dỡ bỏ khỏi các hầm đạn trên chiếc ''Nevada'', và thủy thủ đoàn đang dừng nghỉ sau khi chất nạp xong kiểu đầu đạn mới trước khi tiếp tục nạp thuốc nổ trong ngày Chủ nhật hôm đó.<ref name="proceedings">Sabin, L. A., Vice Admiral, USN. "Comment and Discussion", ''United States Naval Institute Proceedings'', tháng 9 năm 1973, trang 97.</ref>
 
[[Tập tin:USS Nevada temporarily beached on hospital point 925AM NARA-80-G-19940.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|''Nevada'' mắc cạn và bốc cháy tại Hospital Point]]
 
Khi những hư hại do bom đã trở nên rõ ràng, ''Nevada'' được lệnh hướng đến phía Tây đảo Ford để tránh việc bị đánh chìm ngay trên luồng tàu sẽ khiến nó "trở nên một cái nút thắt chặt phần còn lại của hạm đội trong cái chai."<ref name="bonner105">Bonner (1996), trang 105</ref> Thay vì vậy, nó được cho mắc cạn tại Hospital Point lúc 10 giờ 30 phút,<ref name="w213">Wallin (1968), trang 212–213</ref> dưới sự giúp đỡ của chiếc [[USS Hoga (YT-146)|''Hoga'']] và chiếc [[USS Avocet (AVP-4)|''Avocet'']],<ref>{{cite web |url=http://www.history.navy.mil/photos/events/wwii-pac/pearlhbr/ph-nv2.htm |title=Pearl Harbor Raid, 7 tháng 12 năm 1941–USS ''Nevada'' during the Pearl Harbor Attack (Part II) |dateformat=dmy |accessdate=8 tháng 12 năm 2008 |date=20 tháng 12 năm 2000 |work= |publisher=[[United States Department of the Navy|Navy Department]], [[Naval Historical Center]]}}</ref> cho dù nó đã xoay sở bắn hạ được thêm ba máy bay đối phương trước khi mắc cạn.<ref name=report>{{cite web|url=http://www.history.navy.mil/docs/wwii/pearl/ph59.htm |title=USS ''Nevada'', Report of Pearl Harbor Attack |accessdate=1 tháng 9 năm 2008|dateformat=dmy |last=Scanland |first=F.W. |year=1941 |publisher=Naval Historical Center}}</ref>
Dòng 118:
 
=== Attu và ngày D tại Normandie ===
[[Tập tin:USS Nevada damage to forecastle deck due to bomb blast'.jpg|thumbnhỏ|rightphải|Hư hại do một trong những quả bom đã đánh trúng ''Nevada'' trong trận tấn công Trân Châu Cảng]]
[[Tập tin:USS Nevada (BB-36) fire on positions ashore.jpg|thumbnhỏ|rightphải|''Nevada'' yểm trợ cho cuộc đổ bộ lên [[bãi biển Utah]], ngày [[6 tháng 6]] năm [[1944]].]]
 
''Nevada'' nổi trở lại vào ngày [[12 tháng 2]] năm [[1942]] và được cho sửa chữa tạm thời tại Trân Châu Cảng để có thể quay về [[xưởng hải quân Puget Sound]] cho một cuộc đại tu toàn bộ.<ref name="bonner106">Bonner (1996), trang 106</ref> Cuộc đại tu này kéo dài cho đến hết năm [[1942]], và đã làm thay đổi diện mạo của chiếc thiết giáp hạm cũ, trông gần giống những chiếc thuộc [[South Dakota (lớp thiết giáp hạm) (1939)|lớp ''South Dakota'']].<ref>{{cite news |title=BB-36—''Nevada'' (''Nevada''–class) |url=http://en.wikipedia.org/wiki/Image:USS_Nevada_(BB-36)_specs.jpg |publisher=Division of Naval Intelligence; Identification and Characteristics Section |work=Naval Recognition Manual |year=1943 |accessyear=2008|accessdaymonth=8 tháng 10 }}</ref> Các khẩu pháo 127 mm (5"/51 và 5"/25) được thay thế bằng 16 khẩu [[pháo 127 mm (5")/38 caliber]] bố trí trên những tháp súng đôi.<ref name="Breyer"/> Sau đó ''Nevada'' khởi hành đi [[Alaska]], nơi nó thực hiện bắn phá yểm trợ từ ngày [[11 tháng 5|11]] đến ngày [[18 tháng 5]] năm [[1942]] để chiếm đóng [[trận Attu|Attu]].<ref name=DANFS/>
Dòng 131:
 
''Nevada'' hỗ trợ cho chiến dịch này từ ngày [[15 tháng 8]] đến ngày [[25 tháng 9]] năm [[1944]], đấu pháo "tay đôi"<ref name=DANFS/> cùng "Big Willie": một pháo đài được tăng cường đáng kể bằng bốn khẩu pháo [[Pháo 340mm/45 Modèle 1912|340 mm/45 Modèle 1912]] bố trí trên hai tháp pháo đôi. Những khẩu pháo này được vớt lên từ chiếc thiết giáp hạm Pháp [[Provence (thiết giáp hạm Pháp)|''Provence'']] sau khi [[hạm đội Pháp]] bị [[đánh đắm Hạm đội Pháp tại Toulon|đánh đắm tại Toulon]]; những khẩu pháo này có tầm bắn xa đến 35 km (22 dặm) và chúng kiểm soát mọi ngả đường đi đến [[Quân cảng Toulon|cảng Toulon]]. Thêm nữa, chúng còn được củng cố bằng các tấm giáp dày dựng vào sườn núi [[Saint-Mandrier-sur-Mer|đảo Saint Mandrier]]. Do những mối nguy hiểm này, các con tàu yểm trợ hỏa lực trong chiến dịch này được lệnh phải san bằng pháo đài này.<ref>Karig, Burton and Freeland (1946), trang 386</ref> Bắt đầu từ ngày [[19 tháng 8]] và được tiếp tục trong suốt những ngày tiếp theo sau, một hoặc nhiều chiếc tàu chiến hạng nặng nả pháo vào nó kết hợp cùng không kích ném bom tầm thấp. Sang ngày [[23 tháng 8]], lực lượng bắn phá do ''Nevada'' dẫn đầu đã giáng được đòn "chí mạng" vào pháo đài trong suốt sáu giờ rưỡi bắn phá, khi ''Nevada'' nả đến 354 loạt đạn. Toulon thất thủ vào ngày [[25 tháng 8]], nhưng bản thân pháo đài, cho dù dường như đã bị "băm nát ra thành nhiều mảnh", vẫn tiếp tục cầm cự được thêm ba ngày nữa.<ref>Karig, Burton and Freeland (1946), trang 387</ref>
[[Tập tin:USS Nevada (BB-36) bombarding Iwo Jima.jpg|thumbnhỏ|rightphải|''Nevada'' bắn phá [[Đảo Iō|Iwo Jima]], ngày [[19 tháng 2]] năm [[1945]].]]
Sau đó ''Nevada'' lên đường hướng về New York để bảo trì các khẩu pháo của nó.<ref name=DANFS/> Ngoài ra, các khẩu pháo 356 mm/45 caliber trên tháp pháo số 1 được thay thế bằng pháo Mark 8 tháo dỡ từ tháp pháo số 2 của chiếc [[USS Arizona (BB-39)|''Arizona'']]; những khẩu pháo mới này được nâng cấp theo tiêu chuẩn Mark 12.<ref name="14/45 II">{{cite web | last = DiGiulian | first = Tony | title = 14"/45 (35.6 cm) Marks 8, 9, 10 and 12 | url = http://www.navweaps.com/Weapons/WNUS_14-45_mk10.htm | publisher = Navweaps.com | date = 27 tháng 3 năm 2008 | accessdate=9 tháng 10 năm 2008|dateformat=dmy }}</ref><ref name="campbell">Campbell (1985), trang 123</ref> Sau khi hoàn tất, nó khởi hành đi [[Thái Bình Dương]] và đi đến [[Đảo Iō|Iwo Jima]] ngày [[16 tháng 2]] năm [[1945]]<ref name=DANFS/> chuẩn bị cho việc bắn phá yểm trợ cuộc chiếm đóng hòn đảo này.<ref>{{cite web|url=http://www.ibiblio.org/pha/comms/1945-02.html |title=CINCPOA Communique No. 264, 19 tháng 2 năm 1945 |accessdate=3 tháng 9 năm 2008|dateformat=dmy|last= |first= |year=1945 |publisher=HyperWar}}</ref> Nó thực hiện nhiệm vụ nói trên cho đến tận ngày [[7 tháng 3]],<ref name=DANFS/> và trong khi nả pháo, nó tiến đến gần sát hòn đảo ở khoảng cách 550 m (600 yard) để cung cấp hỏa lực tối đa cho lực lượng trên bộ tấn công.<ref name=SSBN733/>
 
Dòng 138:
 
== Sau chiến tranh ==
[[Tập tin:USS Nevada (BB-36) after ABLE.jpg|thumbnhỏ|Một bức tranh màu nước của Hải quân Mỹ do [[Arthur Beaumont]] vẽ trên cầu tàu chiếc [[USS Arkansas (BB-33)|''Arkansas'']] sau thử nghiệm "Able"; chiếc tàu màu cam là ''Nevada''.]]
''Nevada'' quay về Trân Châu Cảng sau một giai đoạn ngắn hỗ trợ việc chiếm đóng [[Nhật Bản]] trong [[vịnh Tokyo]]. Sau đó ''Nevada'' được khảo sát đánh giá, và với tuổi đời lên đến trên 32 năm, nó được xem là quá cũ để được giữ lại trong hạm đội sau chiến tranh.<ref name=NVR/><ref name="USN Ships"/> Kết quả là nó được chọn làm tàu mục tiêu cho cuộc [[thử nghiệm nguyên tử Bikini]] ([[Chiến dịch Crossroads]]) vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[1946]].<ref name=DANFS/> Thử nghiệm này bao gồm việc cho nổ hai quả [[vũ khí hạt nhân|bom nguyên tử]] để khảo sát hiệu quả của chúng trên các con tàu chiến.<ref>{{cite web|url=http://www.history.navy.mil/ac/bikini/bikini1.htm |title=Operation Crossroads: Bikini Atoll |accessdate=2 tháng 9 năm 2008|dateformat=dmy|year=2001 |publisher=Naval Historical Center}}</ref> ''Nevada'' được chỉ định làm "tọa độ chết"<ref name="bonner107">Bonner (1996), trang 107</ref> cho thử nghiệm thứ nhất mang tên mã 'Able', sử dụng một vũ khí ném từ máy bay, và do đó nó được sơn một "màu vàng cam xấu xí"<ref name="bonner108">Bonner (1996), trang 108</ref> nhằm giúp cho hoa tiêu có thể ngắm mục tiêu dễ dàng. Tuy nhiên, ngay cả với màu sắc tương phản rõ ràng, quả bom vẫn bị ném chệch mục tiêu đến 1.500 m (1.700 yard) và phát nổ bên trên chiếc [[tàu sân bay]] hạng nhẹ [[USS Independence (CVL-22)|''Independence'']].<ref name="bonner108"/> ''Nevada'' cũng chịu đựng được cả thử nghiệm bom nguyên tử thứ hai mang tên mã 'Baker', một vụ nổ sâu dưới mặt nước 27 m (90 ft), nhưng nó bị hư hỏng và nhiễm xạ rất nặng.<ref name="USN Ships"/> ''Nevada'' sau đó được kéo về Trân Châu Cảng và được cho ngừng hoạt động vào ngày [[29 tháng 8]] năm [[1946]].<ref name=DANFS/>