Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Indiana (BB-58)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
update infobox
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
Dòng 63:
 
== Lịch sử hoạt động ==
[[Tập tin:USS Indiana (BB-58) 1942.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|USS Indiana, ngày 8 tháng 9 năm 1942]]
Sau chuyến đi thử máy tại [[vịnh Casco]], [[Maine]], chiếc thiết giáp hạm mới đi ngang qua [[kênh đào Panama]] để củng cố các đơn vị Hạm đội Mỹ tại Thái Bình Dương trong những tháng đầu tiên đầy khó khăn của [[Thế Chiến II]]. Nó gia nhập lực lượng của Chuẩn Đô đốc Lee hộ tống cho các [[tàu sân bay]] vào ngày [[28 tháng 11]] năm [[1942]]. Trong 11 tháng tiếp theo sau, ''Indiana'' giúp bảo vệ các tàu sân bay [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']] và [[USS Saratoga (CV-3)|''Saratoga'']], sau đó hỗ trợ cho lực lượng Mỹ tiến quân tại [[quần đảo Solomon]].
 
''Indiana'' đi đến [[Trân Châu Cảng]] vào ngày [[21 tháng 10]] năm [[1943]], rồi lại khởi hành vào ngày [[11 tháng 11]] cùng với các lực lượng hỗ trợ cho cuộc tấn công đổ bộ lên [[quần đảo Gilbert]]. Chiếc thiết giáp hạm tham gia bảo vệ các tàu sân bay đang hỗ trợ lực lượng [[Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] trong trận đánh đẫm máu tại [[trận Tarawa|Tarawa]]. Sau đó vào cuối [[tháng 1]] năm [[1944]] nó bắn phá [[Kwajalein]] trong tám ngày trước các cuộc đổ bộ xuống [[quần đảo Marshall]] vào ngày [[1 tháng 2]]. Trong đêm đó, khi đang cơ động để tiếp nhiên liệu cho các [[tàu khu trục]] hộ tống, ''Indiana'' đã va chạm với chiếc thiết giáp hạm [[USS Washington (BB-56)|''Washington'']], làm thiệt mạng nhiều người. Những sửa chữa tạm thời bên mạn phải con tàu được thực hiện tại đảo san hô [[Majuro]] trước khi con tàu quay về Trân Châu Cảng vào ngày [[13 tháng 2]] để sửa chữa lớn. Thuyền trưởng của ''Indiana'' thừa nhận rằng con tàu của ông đã tách khỏi đội hình, và ông nhận hoàn toàn trách nhiệm về vụ va chạm. Ông bị Đô đốc [[Chester Nimitz|Nimitz]] cách chức và được thay thế.
[[Tập tin:USS Indiana (BB-58) In a South Pacific harbor.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|USS ''Indiana'' tại Nam [[Thái Bình Dương]].]]
''Indiana'' gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 trong cuộc không kích lớn nhắm vào đảo san hô [[Truk]] trong các ngày [[29 tháng 4|29]] và [[30 tháng 4]], rồi sau đó nó nả pháo xuống đảo [[Ponape]] trong ngày [[1 tháng 5]]. Vào [[tháng 6]] ''Indiana'' hướng đến [[quần đảo Marianas]] cùng hạm đội Mỹ đông đảo nhằm tấn công và chiếm đóng chuỗi quần đảo chiến lược này. Nó nả pháo xuống đảo [[Saipan]] trong các ngày [[13 tháng 6|13]] và [[14 tháng 6]] và bắn rơi nhiều máy bay đối phương bằng hỏa lực phòng không khi chống trả lại các đợt không kích trong ngày [[15 tháng 6]]. Khi hạm đội tàu sân bay Nhật Bản tiến đến Marianas nhằm đẩy lui lực lượng Mỹ, ''Indiana'' đã đối đầu với họ trong thành phần “hàng thiết giáp hạm” của Phó Đô đốc [[Willis A. Lee]]. Hai hạm đội khổng lồ đã đối đầu nhau trong ngày [[19 tháng 6]] năm [[1944]] trong trận chiến lớn nhất giữa các tàu sân bay trong Thế Chiến II, [[Trận chiến biển Philippine]], khi bốn đợt không kích được phía Nhật tung ra nhắm vào hạm đội Mỹ. Những chiếc máy bay tiêm kích [[F6F Hellcat]] của hạm đội, cùng với sự trợ giúp ít ỏi của các tàu hộ tống, đã bắn rơi gần 400 máy bay tấn công Nhật. Trận không chiến này vì vậy được mang cái tên lóng “Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại”. Với sự trợ giúp lớn từ các [[tàu ngầm]], lực lượng của Phó Đô đốc [[Marc A. Mitscher]] đã đánh chìm ba tàu sân bay Nhật, trong đó có chiếc tàu sân bay kỳ cựu [[Shōkaku (tàu sân bay Nhật)|Shōkaku]] và chiếc tàu sân bay mới nguyên [[Taihō (tàu sân bay Nhật)|Taihō]]. ''Indiana'' đã bắn rơi nhiều máy bay đối phương, và né tránh được hai quả ngư lôi suýt trúng đích. Sau khi trận chiến kết thúc với ưu thế rõ rệt cho phía Mỹ, ''Indiana'' tiếp tục vai trò yểm trợ chung quanh các tàu sân bay, và đã ở liên tục ngoài biển khơi trong 64 ngày đêm liên tục để hỗ trợ cho cuộc chiếm đóng Marianas.