Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cầm Bá Thước”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Không thêm nội dung
Dòng 1:
'''Cầm Bá Thước''' (1858<ref>Năm sinh ghi theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Có nguồn ghi Cầm Bá Thước sinh 1859 [http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=863:cm-ba-thc-18591895&catid=81:lanh-tu-lanh-dao&Itemid=198]</ref>-1895), tên Thái: '''Lò Cắm Pán''', là một trong những thủ lĩnh nghĩa quân người [[người Thái|người dân tộc Thái]] hưởng ứng [[phong trào Cần Vương]] ở [[Thanh Hóa]], thuộc [[Việt Nam]] cuối [[thế kỷ 19]].
==Thân thế==
'''Cầm Bá Thước''' sinh tại bản Lùm Nưa, tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân (nay là xã Vạn Xuân, huyện [[Thường Xuân]], tỉnh [[Thanh Hoá]]), trong một gia đình lang đạo nhiều đời. Cha ông là Cầm Bá Tiêu từng được triều vua [[Tự Đức]] phong chức Quản cơ.
 
Năm lên 8 tuổi, cha ông mời thầy về nhà dạy [[chữ Hán]] cho ông. Nhờ ông học giỏi và có quan hệ tốt với các quan lại [[người Việt]] đang trấn nhậm tại quê ông, nên khi trưởng thành, ông được thay cha trở thành thổ ty và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Bang tá.
 
==Hưởng ứng dụ Cần Vương==
===Được giao quyền chỉ huy quân sự===
Ngày 5 [[tháng 7]] năm 1885, quân triều đình tập kích quân Pháp ở đồn Mang Cá thất bại. Quân Pháp phản công, [[kinh thành Huế]] bị thất thủ. [[Tôn Thất Thuyết]] đưa vua [[Hàm Nghi]] lên [[thành Tân Sở|chiến khu Tân Sở]] ([[Quảng Trị]]) ra [[chiếu Cần Vương|dụ Cần Vương]] kêu gọi toàn dân chống Pháp.
 
Nhận thấy tương quan lực lượng khá chênh lệch, vào [[tháng 2]] [[năm]] [[1886]], Tôn Thất Thuyết đã để cho hai con trai của mình là [[Tôn Thất Thiệp]] và [[Tôn Thất Đạm]] tiếp tục duy trì triều đình [[Hàm Nghi]] chống [[thực dân Pháp|Pháp]], còn mình cùng với [[Trần Xuân Soạn]] và [[Ngụy Khắc Kiều]] tìm đường sang [[Trung Quốc]] cầu viện [[nhà Thanh]].
 
Trên đường đi, ông có đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu [[Thường Xuân]] để gặp Cầm Bá Thước. Trong kế hoạch kháng Pháp, [[Tôn Thất Thuyết]] rất chú ý tỉnh [[Thanh Hóa]]. Vì vậy, ông đã cử Tống Duy Tân làm Chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa, phong Cầm Bá Thước làm Bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh và phong Hà Văn Mao làm Tán lý quân vụ, chuẩn bị lực lượng nghĩa quân Mường vùng châu Quan Hóa.
 
Với danh nghĩa Bang biện quân vụ, Cầm Bá Thước nắm được lực lượng quân sự thổ binh, dân binh của hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Lực lượng này tuy đông nhưng sức chiến đấu không mạnh. Theo kế của cử nhân Tống Nhữ Mai, con trai [[Tống Duy Tân]], ông làm tờ bẩm lên Tri châu Thường Xuân xin mộ quân và huy động lực lượng đóng đồn bảo vệ trị an từ Bái Thượng trở lên đến biên giới [[Lào]]. Được sự đồng ý của Tri châu Thường Xuân, Cầm Bá Thước đã cho điều động dân binh, bố trí lại việc canh gác và đóng các đồn suốt từ Bái Thượng lên Cửa Đặt, rồi lên đến Bất Mọt. Dọc theo [[sông Đặt]], Cầm Bá Thước cho xây dựng rất nhiều đồn lũy, lập nhiều căn cứ như căn cứ Bản Lẹ, đồn Đồng Chong, đồn Bù Đồn...
Ngoài ra, để tăng cường sức mạnh cho lực lượng, ông đã đề xuất và được phép đem [[Chi Quế|quế]] đi bán để lấy tiền mua vũ khí cùng lương thực.
 
===Trong sự nghiệp chung===
Ngày 21 [[tháng 1]] năm [[1887]], [[Khởi nghĩa Ba Đình|căn cứ Ba Đình thất thủ]]. Nghĩa quân Ba Đình rút về Mã Cao hội quân với nghĩa quân [[Hà Văn Mao]]. Tuy nhiên, đến [[mùa thu]] năm 1887, căn cứ Mã Cao cũng bị quân Pháp phá vỡ. Các toán nghĩa quân tan rã về các địa phương. Một cánh quân do Hà Văn Mao chỉ huy theo hướng Thung Voi, rút về Điền Lư, Niên Kỷ (nay thuộc huyện Bá Thước). Một cánh quân rút về Thường Xuân hội quân với nghĩa quân Trịnh Vạn.
 
Theo đà truy kích, quân Pháp tập trung tiêu diệt cánh quân của Hà Văn Mao trước tiên. Cuối năm [[1887]], nghĩa quân bị tấn công thiệt hại nặng nề. Hà Văn Mao tự sát. Một thủ lĩnh Mường khác là Hà Văn Nho chiêu tập nghĩa quân phối hợp với [[Tống Duy Tân]] để tiếp tục hoạt động. Quân Pháp rút về để tập trung tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân, tạm thời chưa đủ lực lượng để tấn công Trịnh Vạn.
 
Sau trận tập kích đồn Yên Lược vào đêm ngày 2 [[tháng 12]] năm [[1892]], nghĩa quân Hùng Lĩnh rút lên Trịnh Vạn. Ở Trịnh Vạn, [[Tống Duy Tân]] để lại số lương thực và vũ khí cho Cầm Bá Thước, còn nghĩa quân Hùng Lĩnh được biên chế gọn nhẹ tiến lên Mường Kỷ mong hợp quân với cánh quân [[Đốc Ngữ]] chuyển ra Bắc. Tuy nhiên, do quân Pháp tập kích liên miên, nghĩa quân Hùng Lĩnh bị suy yếu không còn đủ sức chiến đấu nữa. Tháng 9 năm 1892, Tống Duy Tân bị một người học trò của mình là Cao Ngọc Lễ phản bội, báo tin cho Pháp bắt. Nghĩa quân Hùng Lĩnh hoàn toàn tan rã.
 
Sau khi các cánh nghĩa quân Ba Đình, Quan Hóa và Hùng Lĩnh đều tan rã hết, quân Pháp huy động lực lượng cô lập Trịnh Vạn. Trước tình thế đó, [[tháng 3]] năm [[1893]], Cầm Bá Thước phải tạm điều đình và trá hàng với công sứ Pháp ở [[Thanh Hóa]]. Khi nghĩa quân [[Phan Đình Phùng]] kháng chiến ở vùng Hương Sơn, Cầm Bá Thước đã cho Bang Lự vào liên hệ với nghĩa quân [[Phan Đình Phùng]] và được thủ lĩnh Phan công nhận Trịnh Vạn là Quân thứ [[Thanh Hóa]] (gọi tắt là "Thanh thứ") của nghĩa quân Hương Sơn. Nghĩa quân Hương Sơn có viện trợ cho nghĩa quân Trịnh Vạn một số súng làm theo kiểu Pháp, nhưng số lượng không nhiều. Khi nghĩa quân Hương Sơn bị quân Pháp bao vây, Cầm Bá Thước đã cho một cánh quân do Bang Lự chỉ huy tiến vào hỗ trợ nhưng cũng thể thay đổi được tình thế.
 
===Chiến đấu trong vòng vây===
Phát hiện thấy dấu hiệu Cầm Bá Thước có liên hệ với nghĩa quân Hương Sơn, đầu [[tháng 2]] năm [[1894]], Pháp cử Giám binh Lemeray (La-mơ-ray) lên Trịnh Vạn thám sát tình hình. Lemeray khẳng định Cầm Bá Thước chỉ trá hàng, vẫn tiếp tục rèn luyện quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị chiến đấu. Sau khi nhận được thông báo của Lemeray, Pháp đã điều một đội quân từ Thanh Hóa tiến lên Cửa Đặt để chuẩn bị tấn công Trịnh Vạn. Quân Pháp tiến lên Trịnh Vạn theo 3ba hướng. Một toán do Cuvelier (Cu-vơ-li-ê) chỉ huy tiến dọc theo sông Chu. Toán thứ hai do Marlier (Mắc-li-ê) chỉ huy đi hướng từ phía Nam theo sông Luộc. Toán thứ ba do Lecal (Lơ-Cát) chỉ huy men theo sông Đặt.
 
Để giành thế chủ động, ngày 6 [[tháng 2]] năm [[1894]], Cầm Bá Thước dẫn nghĩa quân tấn công đồn Thổ Sơn cách Bãi Thượng 10km10[[km]], ngay khi Lemeray vừa tới Trịnh Vạn. Sau đó, ngày 11 tháng 2 năm 1894 nghĩa quân lại tập kích đồn Quang Thôn. Đêm hôm đó, cánh quân của Lecal đang đóng ở Yên Lược ([[Thọ Xuân]]) lên tiếp viện cho đồn Thổ Sơn trong đêm để giải cứu Lemeray. Thấy quân tiếp viện lên, nghĩa quân ta rút về căn cứ. Sáng hôm sau, Lecal cho quân tấn công lên Quang Thôn, giải vây cho đồn này. [[Tháng 3]] năm 1894, nghĩa quân Trịnh Vạn lại tấn công đồn Cửa Đạt, tuy nhiên không thành công.
 
Nhận thấy quân Pháp quá mạnh, Cầm Bá Thước cho hết dân sơ tán vào rừng, thanh niên ở lại chiến đấu. Quân Pháp tấn công đồn Bù Lẹ, Bù Đồn. Dựa vào công sự có sẵn, nghĩa quân chống cự quyết liệt, quân Pháp bị thương và chết rất nhiều. Khi cuộc chiến đấu quyết liệt thì cánh quân của Marlier kéo tới. Cầm Bá Thước thấy Pháp có thêm viện binh bèn rút quân về Cọc Chẽ (nay ở xã Xuân Lệ) ở phía Đông Nam Trịnh Vạn.
 
Chiếm được Trịnh Vạn, quân Pháp xây đồn mới ở Bù Đồn và Đồng Chong để chống lại nghĩa quân, đồng thời bắt bớ và tàn sát dân chúng và quật mả gia đình Cầm Bá Thước để khủng bố tinh thần nghĩa quân. Tuy nhiên, nghĩa quân vẫn liên tục tập kích quân Pháp, kể cả khi cả 3ba cánh quân Pháp đã hội đủ quân về Trịnh Vạn.
 
Trước tình hình luôn luôn bị quấy rối, quân Pháp tập trung thêm binh lực bình định Trịnh Vạn. Để đối phó, Cầm Bá Thước cho bố trí một trận địa lớn, giao cho lý trưởng làng Cúc là Hà Văn Vạn trá hàng để dẫn đường quân Pháp tấn công căn cứ nghĩa quân. Ngày 29 [[tháng 1]] năm [[1895]], quân Pháp tiến quân lên Cọc Chẽ nhưng bị nghĩa quân phục kích gây thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, cuối cùng quân Pháp cũng chiếm được Cọc Chẽ nhưng gần tối cũng rút về Trịnh Vạn vì sợ bị tấn công.
 
Căn cứ Cọc Chẽ bị phá hủy, Cầm Bá Thước cho quân xây dựng căn cứ ở Hòn Bòng, giáp giới [[Thanh Hóa|Thanh]]-[[Nghệ An|Nghệ]] ở thượng nguồn sông Đặt. Ngày 10 [[tháng 5]] năm [[1895]], Marlier thay Lemeray làm giám binh, dẫn 200 lính đánh vào Hòn Bòng. Sau bốn ngày liên tục chiến đấu, nghĩa quân suy yếu rõ rệt. Mối liên hệ của Thanh thứ với nghĩa quân Hương Sơn bị cắt đứt vì chính lúc này nghĩa quân Hương Sơn cũng bị bao vây ngặt nghèo, còn các phong trào chống Pháp ở [[Thanh Hóa]] đều tan rã. Đến trưa ngày 13 [[tháng 5]] năm 1895, quân Pháp bắt được Cầm Bá Thước cùng vợ, conem traimột12 sốnghĩa ngườiquân theotại ôngvùng tạinúi Lang-ca-phó thuộc Bản[[Thường Xuân]], saurồi đưa về giam ở Trịnh Vạn. Sau khi chiêu hàng không được, vào khoảng cuối tháng 5 năm [[Ất Dậu]] (1895), ông bị quân Pháp bí mật thủ tiêu. Năm đó, ông mới 37 tuổi.
 
==Ghi nhận công lao==
Cuộc khởi nghĩa của Cầm Bá Thước duy trì được khá lâu, chỉ đứng sau cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Lúc Cầm Bá Thước còn đang khángchống Pháp, [[Tôn Thất Thuyết]], lúc này đang ở [[Trung Quốc]] cầu viện [[nhà Thanh]], có làm bài thơ gửi ông:
 
{|valign="top"
Dòng 74:
:''Tiếng tốt còn bền với núi sông.
|}
Sau Tổngtổng khởi nghĩa năm [[1945]], nhà cầm quyền lúc bấy giờ đã đổi tên châu Tân Hóa thành huyện [[Bá Thước]] để tôn vinh ông. Hiện tại, tên của ông cũng được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố & trường học tại [[Việt Nam]].
 
==Chú thích==
{{reflist}}
==Tài liệu tham khảo==
*Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nxb KHXH, Hà Nội, 1992.
*Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, ''Lịch sử Việt Nam ([[1858]]-cuối [[thế kỷ 19|XIX]])'', Quyển 3, Tập 1, Phần 2. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
*Bài viết về Cầm Bá Thước trên website Vinhanonline [http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=863:cm-ba-thc-18591895&catid=81:lanh-tu-lanh-dao&Itemid=198]