Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cầm Bá Thước”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Không thêm nội dung |
n thêm tài liệu |
||
Dòng 12:
Nhận thấy tương quan lực lượng khá chênh lệch, vào [[tháng 2]] [[năm]] [[1886]], Tôn Thất Thuyết đã để cho hai con trai của mình là [[Tôn Thất Thiệp]] và [[Tôn Thất Đạm]] tiếp tục duy trì triều đình [[Hàm Nghi]] chống [[thực dân Pháp|Pháp]], còn mình cùng với [[Trần Xuân Soạn]] và [[Ngụy Khắc Kiều]] tìm đường sang [[Trung Quốc]] cầu viện [[nhà Thanh]].
Trên đường đi, ông có đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu [[Thường Xuân]] để gặp Cầm Bá Thước. Trong kế hoạch kháng Pháp, [[Tôn Thất Thuyết]] rất chú ý tỉnh [[Thanh Hóa]]. Vì vậy, ông đã cử [[Tống Duy Tân]] làm Chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa, phong Cầm Bá Thước làm Bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh và phong Hà Văn Mao làm Tán lý quân vụ, chuẩn bị lực lượng nghĩa quân Mường vùng châu Quan Hóa.
Với danh nghĩa Bang biện quân vụ, Cầm Bá Thước nắm được lực lượng quân sự thổ binh, dân binh của hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Lực lượng này tuy đông nhưng sức chiến đấu không mạnh. Theo kế của [[cử nhân]] Tống Nhữ Mai, con trai [[Tống Duy Tân]], ông làm tờ bẩm lên Tri châu Thường Xuân xin mộ quân và huy động lực lượng đóng đồn bảo vệ trị an từ Bái Thượng trở lên đến biên giới [[Lào]]. Được sự đồng ý của Tri châu Thường Xuân, Cầm Bá Thước đã cho điều động dân binh, bố trí lại việc canh gác và đóng các đồn suốt từ Bái Thượng lên Cửa Đặt, rồi lên đến Bất Mọt. Dọc theo [[sông Đặt]], Cầm Bá Thước cho xây dựng rất nhiều đồn lũy, lập nhiều căn cứ như căn cứ Bản Lẹ, đồn Đồng Chong, đồn Bù Đồn...Ngoài ra, để tăng cường sức mạnh cho lực lượng, ông đã đề xuất và được phép đem [[Chi Quế|quế]] đi bán để lấy tiền mua vũ khí cùng lương thực.
===Tham gia khởi nghĩa Hùng Lĩnh===
Đầu năm [[1887]], đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội [[phong trào Cần Vương]] tại [[Thanh Hóa]]. Căn cứ [[Ba Đình]] và căn cứ [[Mã Cao]] nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh ([[Đinh Công Tráng]], [[Nguyễn Khế]], [[Hoàng Bật Đạt]]), tự sát ([[Phạm Bành]], [[Hà Văn Mao]], [[Lê Toại]]), hoặc đi tìm phương kế khác ([[Trần Xuân Soạn]]), v.v...
Trước tình thế hiểm nghèo này, Tống Duy Tân đã đi gặp [[Tôn Thất Thuyết]] tại [[Quảng Đông]], và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về [[Thanh Hóa]] để tiếp tục công cuộc kháng Pháp <ref> ''Việt sử tân biên'', sách đã dẫn, tr. 138.</ref>. Đầu năm [[1889]], Tống Duy Tân về đến quê nhà, và sau đó ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh.
Bởi chung chí hướng, [[Cầm Bá Thước]] liền nhận lời mời cộng tác của Tống Duy Tân <ref> Sách ''[[Việt sử tân biên]]'' (sách đã dẫn, tr, 137) chép Cao Điển và Cầm Bá Thước đều làm phụ tá cho Tống Duy Tân. Sách ''Lịch sử 11 (nâng cao)'' thì ghi Tống Duy Tân và Cầm Bá Thước đều là lãnh đạo chính của cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (NXB, Giáo Dục, 2007, tr. 253).</ref>. Kể từ đó, các ông cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn [[sông Mã]]; đến hợp đồng chiến đấu với [[Đề Kiều]]-[[Đốc Ngữ]] ở vùng hạ lưu [[sông Đà]], với [[Phan Đình Phùng]] ở vùng rừng núi [[Nghệ An]]-[[Hà Tĩnh]], với [[Hà Văn Nho]] (thủ lĩnh Mường) tại châu Quan Hóa, với [[Tôn Thất Hàn]] ở [[Nông Cống]], v.v...
Sau nhiều trận giao tranh, nổi tiếng nhất là trận Vân Đồn ở [[Nông Cống]] đầu năm [[1889]], trận Yên Lãng tại [[Thọ Xuân]] vào [[tháng 3]] năm [[1890]],...tuy đã thu được một số thắng lợi; nhưng vào cuối năm [[1890]] trở đi, nghĩa quân Hùng Lĩnh bước vào thời kỳ chiến đấu gay go và gian khổ hơn. Bởi nhân dân bị khủng bố quá dữ nên không dám theo và cung ứng đầy đủ các thứ nữa <ref>Theo ''Lịch sử Việt Nam ([[1858]]-cuối [[thế kỷ 19|XIX]], tr. 126-127.</ref>.
Cầm cự thêm một thời gian, khoảng [[tháng 9]] năm [[1892]], thì thủ lĩnh Tống Duy Tân phải tuyên bố giải tán lực lượng để tránh thêm thương vong <ref>Theo ''Lịch sử Việt Nam ([[1858]]-cuối [[thế kỷ 19|XIX]], tr. 129.</ref>. Sau đó do bị chỉ điểm, Tống Duy Tân bị quân Pháp bắt được và cho hành hình ông tại [[Thanh Hóa]] ngày 5 [[tháng 10]] ([[âm lịch]]) năm [[Nhâm Thìn]] ([[1892]])<ref>Ngày Tống Duy Tân hy sinh, chép theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', tr. 846. </ref>. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh đến đây coi như đã thất bại.
===Tham gia khởi nghĩa Hương Khê===
Sau đánh dẹp được cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình và ở Hùng Lĩnh, quân Pháp rảnh tay liền huy động lực lượng cô lập Trịnh Vạn, căn cứ chính của Cầm Bá Thước.
Dò biết được chuyện này, đầu [[tháng 2]] năm [[1894]], Bộ chỉ huy quân Pháp cử Giám binh Lemeray (La-mơ-ray) lên Trịnh Vạn thám sát tình hình. Lúc trở về, Lemeray khẳng định Cầm Bá Thước chỉ trá hàng, vì vẫn tiếp tục rèn luyện quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị chiến đấu.
Phát hiện thấy dấu hiệu Cầm Bá Thước có liên hệ với nghĩa quân Hương Sơn, đầu [[tháng 2]] năm [[1894]], Pháp cử Giám binh Lemeray (La-mơ-ray) lên Trịnh Vạn thám sát tình hình. Lemeray khẳng định Cầm Bá Thước chỉ trá hàng, vẫn tiếp tục rèn luyện quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị chiến đấu. Sau khi nhận được thông báo của Lemeray, Pháp đã điều một đội quân từ Thanh Hóa tiến lên Cửa Đặt để chuẩn bị tấn công Trịnh Vạn. Quân Pháp tiến lên Trịnh Vạn theo ba hướng. Một toán do Cuvelier (Cu-vơ-li-ê) chỉ huy tiến dọc theo sông Chu. Toán thứ hai do Marlier (Mắc-li-ê) chỉ huy đi hướng từ phía Nam theo sông Luộc. Toán thứ ba do Lecal (Lơ-Cát) chỉ huy men theo sông Đặt.▼
▲
Để giành thế chủ động, ngày 6 [[tháng 2]] năm [[1894]], Cầm Bá Thước dẫn nghĩa quân tấn công đồn Thổ Sơn cách Bãi Thượng 10[[km]], ngay khi Lemeray vừa tới Trịnh Vạn. Sau đó, ngày 11 tháng 2 năm 1894 nghĩa quân lại tập kích đồn Quang Thôn. Đêm hôm đó, cánh quân của Lecal đang đóng ở Yên Lược ([[Thọ Xuân]]) lên tiếp viện cho đồn Thổ Sơn trong đêm để giải cứu Lemeray. Thấy quân tiếp viện lên, nghĩa quân ta rút về căn cứ. Sáng hôm sau, Lecal cho quân tấn công lên Quang Thôn, giải vây cho đồn này. [[Tháng 3]] năm 1894, nghĩa quân Trịnh Vạn lại tấn công đồn Cửa Đạt, tuy nhiên không thành công.▼
▲Để giành thế chủ động, ngày 6 [[tháng 2]] năm [[1894]], Cầm Bá Thước dẫn nghĩa quân tấn công đồn Thổ Sơn cách Bãi Thượng 10[[km]], ngay khi Giám binh Lemeray vừa tới Trịnh Vạn.
Nhận thấy quân Pháp quá mạnh, Cầm Bá Thước cho hết dân sơ tán vào rừng, thanh niên ở lại chiến đấu. Quân Pháp tấn công đồn Bù Lẹ, Bù Đồn. Dựa vào công sự có sẵn, nghĩa quân chống cự quyết liệt, quân Pháp bị thương và chết rất nhiều. Khi cuộc chiến đấu quyết liệt thì cánh quân của Marlier kéo tới. Cầm Bá Thước thấy Pháp có thêm viện binh bèn rút quân về Cọc Chẽ (nay ở xã Xuân Lệ) ở phía Đông Nam Trịnh Vạn.▼
▲Nhận thấy quân Pháp quá mạnh, Cầm Bá Thước cho hết dân sơ tán vào rừng, thanh niên ở lại chiến đấu. Quân Pháp tấn công đồn Bù Lẹ, Bù Đồn. Dựa vào công sự có sẵn, nghĩa quân chống cự quyết liệt, quân Pháp bị thương
Chiếm được Trịnh Vạn, quân Pháp xây đồn mới ở Bù Đồn và Đồng Chong để chống lại nghĩa quân, đồng thời bắt bớ và tàn sát dân chúng và quật mả gia đình Cầm Bá Thước để khủng bố tinh thần nghĩa quân. Tuy nhiên, nghĩa quân vẫn liên tục tập kích quân Pháp, kể cả khi cả ba cánh quân Pháp đã hội đủ quân về Trịnh Vạn.▼
▲Chiếm được Trịnh Vạn, quân Pháp xây đồn mới ở Bù Đồn và Đồng Chong để
Để nhanh chóng bình định nơi này, quân Pháp tập trung thêm binh lực ở Trịnh Vạn. Đối phó lại, Cầm Bá Thước cho bố trí một trận địa lớn, giao cho lý trưởng làng Cúc là Hà Văn Vạn trá hàng để dẫn đường quân Pháp tấn công Cọc Chẽ, một căn cứ của nghĩa quân. Ngày 29 [[tháng 1]] năm [[1895]], quân Pháp mở cuộc hành quân lên Cọc Chẽ. Dọc đường bị phục kích, bị thiệt hại nặng, nhưng cuối cùng quân Pháp cũng đánh chiếm được nơi đó.
Căn cứ Cọc Chẽ bị phá hủy, Cầm Bá Thước cho quân xây dựng căn cứ mới ở Hòn Bòng, giáp giới [[Thanh Hóa|Thanh]]-[[Nghệ An|Nghệ]] ở thượng nguồn sông Đặt. Ngày 10 [[tháng 5]] năm [[1895]], Marlier thay Lemeray làm giám binh, dẫn 200 lính đánh vào Hòn Bòng. Sau bốn ngày liên tục chiến đấu, nghĩa quân suy yếu rõ rệt. Mối liên hệ của "Thanh thứ" với Đến trưa ngày 13 [[tháng 5]] năm [[1895]], quân Pháp bắt được Cầm Bá Thước cùng vợ, em trai và 12 nghĩa quân tại vùng núi Lang-ca-phó thuộc [[Thường Xuân]], rồi đưa về giam ở Trịnh Vạn. Sau khi chiêu hàng không được, vào khoảng cuối tháng 5 năm [[Ất Dậu]] (1895), ông bị quân Pháp bí mật thủ tiêu. Năm đó, ông mới 37 tuổi. ==Ghi nhận công lao==
{|valign="top"
Hàng 75 ⟶ 85:
|}
Sau tổng khởi nghĩa năm [[1945]], nhà cầm quyền lúc bấy giờ đã đổi tên châu Tân Hóa thành huyện [[Bá Thước]] để tôn vinh ông. Hiện tại, tên của ông cũng được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố & trường học tại [[Việt Nam]].
==Xem thêm==
*[[Tống Duy Tân]]
*[[Phan Đình Phùng]]
*[[Khởi nghĩa Hùng Lĩnh]]
*[[Khởi nghĩa Hương Khê]]
==Chú thích==
{{reflist}}
==Tài liệu tham khảo==
*[[Phạm Văn Sơn]], [[Việt sử tân biên]] (quyển 5, tập trung). Tác giả tự xuất bản, [[Sài Gòn]]. 1963.
*Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nxb KHXH, Hà Nội, 1992.▼
*Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, ''Đại cương lịch sử Việt Nam'' (tập 2). Nhà xuất bản Giáo Dục, 2006.
▲*Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''.
*Hoàng Văn Lân-Ngô Thị Chính, ''Lịch sử Việt Nam ([[1858]]-cuối [[thế kỷ 19|XIX]])'', Quyển 3, Tập 1, Phần 2. Nhà xuất bản Giáo Dục, 1979.
*Bài viết về Cầm Bá Thước trên website Vinhanonline [http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=863:cm-ba-thc-18591895&catid=81:lanh-tu-lanh-dao&Itemid=198]
|