Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hawker Tempest”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: sửa lỗi chính tả
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
Dòng 25:
 
Kiểu cánh mới có bề rộng tối đa, có tỉ lệ giữa bề dày và chiều dài của [[mặt cắt ngang]] cánh là 14,5 %, so với 18 % trên chiếc Typhoon. Nơi có bề dày tối đa được lui ra phía sau gần giữa bề rộng cánh. Cánh mới nguyên ban đầu dài hơn chiếc Typhoon, lên đến 13,1 m (43 ft), nhưng sau đó đầu cánh được rút gọn nên sải cánh ngắn hơn chiếc Typhoon còn 12,5 m (41 ft).
[[ImageTập tin:Hawker Tempest I HM599.jpg|thumbnhỏ|lefttrái|250px|Chiếc Tempest I ''HM599'']]
Kiểu cánh mới bó hẹp việc gắn bốn khẩu pháo [[Hispano 20 mm]] đã được thiết kế để trang bị cho chiếc Typhoon. Chúng phải được gắn lui vào trong cánh, và cánh cũng được mở rộng thành dạng [[cánh dạng elip|elip]] để chứa được các khẩu pháo và 800 quả đạn. Cánh dạng elip mới có diện tích cánh lớn hơn chiếc Typhoon. Camm, một người có đầu óc hài hước, sau này đã nhận xét: "Ban tham mưu Không quân sẽ không mua bất cứ cái gì trông không giống chiếc [[Supermarine Spitfire|Spitfire]] đâu."
 
Dòng 33:
 
Thiết kế mới về căn bản đã cố định vào [[tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]], và Bộ Hàng không đã phát hành một bản tiêu chuẩn số hiệu '''F.10/41''' được viết ra phù hợp với kiểu máy bay này. Một hợp đồng sản xuất hai chiếc [[nguyên mẫu]] được ký kết sau đó một tháng. Chiếc máy bay ban đầu được đặt tên là ''Typhoon Mark II'' nhưng được đổi tên thành ''Tempest'' vào [[tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]] khi nhiều chiếc nguyên mẫu dựa trên các cấu hình thử nghiệm khác nhau được đặt hàng. Những kinh nghiệm về sự cố liên quan đến việc giao hàng các động cơ đã khiến Bộ Hàng không yêu cầu sáu chiếc nguyên mẫu với các kiểu động cơ khác nhau, để khi có sự trì hoãn một kiểu động cơ này thì sẽ có kiểu thay thế. Do đó chiếc Mk I (số hiệu HM599) trang bị động cơ Sabre IV, hai chiếc Mk IIs (LA602 và LA607) với động cơ Centaurus IV, MK III (LA610) với động cơ Griffon IIB, Mk IV (LA614) với động cơ Griffon 61 và Mk V (HM595) với động cơ Sabre II.
[[ImageTập tin:Hawker Tempest ExCC.jpg|thumbnhỏ|rightphải|Chiếc nguyên mẫu Tempest V số hiệu HM595 cấu hình nguyên thủy với nóc buồng lái kiểu xe hơi giống chiếc [[Hawker Typhoon|Typhoon]] và cánh đuôi nhỏ.]]
Chiếc nguyên mẫu Tempest đầu tiên, chiếc Mark V, bay lần đầu tiên vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]. Chiếc máy bay này thực ra chỉ là một chiếc Typhoon được gắn kiểu cánh elip mới và giữ lại phần khung máy bay của chiếc Typhoon, [[nóc buồng lái (máy bay)|nóc buồng lái]], cửa ra vào kiểu [[xe hơi]], động cơ Sabre II, và tản nhiệt dạng "râu". Nó nhanh chóng được gắn [[nóc buồng lái kiểu giọt nước]] giống như những chiếc Typhoon đời sau và một [[cánh đuôi đứng]] cải tiến có diện tích điều khiển rộng hơn gần gấp đôi.
 
Dòng 40:
Chỉ có một chiếc Mark I được chế tạo. Vì kiểu động cơ Sabre IV không sẵn có, Camm đơn giản đưa vào sản xuất phiên bản "Tempest V" gắn động cơ Sabre II. Chiếc đầu tiên lăn bánh khỏi dây chuyền sản xuất vào ngày [[21 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. 100 chiếc Tempest V đầu tiên được giao hàng gắn kiểu pháo [[Hispano Mark II]] 20 mm có nòng dài, và những chiếc này được gọi là "''Tempest V Loạt I''". Việc sản xuất sau đó cung cấp tổng cộng 800 máy bay được gọi là "''Tempest V Loạt II''", sử dụng kiểu pháo [[Hispano-Suiza HS.404]] nòng ngắn, hạn chế việc nòng súng phải lồi ra - cho dù điều này không quá nổi bật như trên chiếc Typhoon.
===Tempest phiên bản Mark V===
[[ImageTập tin:Hawker Tempest V JN729 - Langley - 1943.jpg|thumbnhỏ|rightphải|250px|Chiếc Tempest V số hiệu ''JN729'']]
Việc nhảy vọt từ Tempest Mark I đến Tempest Mark V làm nảy sinh câu hỏi việc gì đã xảy với các phiên bản Mark II, III, và IV? Mark II là một chiếc Tempest trang bị động cơ Centaurus, và nó đã không được đưa vào sản xuất. Mark III và IV được trang bị các phiên bản khác nhau của kiểu động cơ [[Rolls-Royce Griffon]] V-12. Một chiếc nguyên mẫu Mark III được chế tạo nhưng được gắn động cơ Griffon 85, sau này sẽ được cải tiến để trở thành chiếc nguyên mẫu [[Hawker Sea Fury|Hawker Fury]] [http://1000aircraftphotos.com/Contributions/PippinBill/5597.htm]. Công việc với phiên bản Mark IV bị hủy bỏ vào năm [[Hàng không năm 1943|1943]].
 
Dòng 46:
 
==Lịch sử hoạt động==
[[ImageTập tin:Tempest-V-2TAF.jpg|thumbnhỏ|rightphải|Chiếc Tempest V Loạt 1 thuộc Phi đội 3 Không quân Hoàng gia Anh.]]
[[ImageTập tin:Tempest Chas. E Brown photo.jpg|thumbnailnhỏ|rightphải|Chiếc Tempest V Loạt 2. (''Camera Above the Clouds Vol. 1''.)]]
Chiếc Tempest V được giao đến các phi đội hoạt động vào [[tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] (các phi đội số 3 và 56) đóng tại [[căn cứ Không quân Hoàng gia Newchurch]], [[Kent]], nơi nó thực hiện hoàn hảo những phi vụ tấn công tầm thấp truyền thống của chiếc Typhoon, vốn đang được chiếc Tempest thay thế khi tốc độ sản xuất tăng dần. Tuy nhiên, vào [[tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], những chiếc Bom bay [[V-1]] Đức đầu tiên bắt đầu được phóng đến [[London]] và khả năng bay tầm thấp xuất sắc của chiếc Tempest làm cho nó trở thành công cụ được ưa chuộng để chống lại những trái tên lửa bay nhanh không người lái này. Các phi đội Tempest ghi được một tỉ lệ đáng kể trong tổng số chiến công tiêu diệt những trái bom bay của Không quân Hoàng gia (638 trong tổng số 1.846 chiếc bị máy bay tiêu diệt).
 
Dòng 59:
 
==Tempest II==
[[ImageTập tin:Hawker Tempest II LA602 - Prototype.jpg|thumbnhỏ|rightphải|250px|Chiếc nguyên mẫu Tempest II ''LA602'']]
Trong khi Hawker đang nỗ lực hoạt động để đưa chiếc Tempest V vào hoạt động, Sydney Camm và nhóm của ông quay lại kiểu [[động cơ bố trí hình tròn]] [[Bristol Centaurus]], tích hợp nó vào hai chiếc Tempest nguyên mẫu khác. Chiếc Tempest đầu tiên gắn động cơ Centaurus, kiểu "Tempest Mark II", bay lần đầu tiên ngày [[28 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] với một động cơ Centaurus IV, và được tiếp nối bởi chiếc nguyên mẫu thứ hai. Động cơ hình tròn được phát triển dựa trên sự khảo sát một chiếc [[Focke-Wulf Fw 190]] chiếm được còn nguyên vẹn và hoạt động tốt, một điều chưa từng xảy ra. Có những vấn đề về sự rung động, nhưng chúng được sửa chữa bằng cách bổ sung sáu miếng đệm cao su.
 
Dòng 69:
 
==Tempest VI==
[[ImageTập tin:Hawker Tempest VI NX135 Langley 1945.jpg|thumbnhỏ|rightphải|300px|Chiếc Tempest VI, số hiệu ''NX135'', được chụp tại Langley năm 1945]]
Nhiều tinh chỉnh về kỹ thuật được thực hiện trên phiên bản Tempest II được tích hợp vào phiên bản Tempest cuối cùng này, kiểu "Tempest VI", được trang bị động cơ Sabre V công suất 2.340 mã lực (1.700 kW). Hằng trăm chiếc Tempest VI đã được đặt hàng, nhưng chỉ có 142 chiếc được chế tạo. Phiên bản Tempest VI là máy bay tiêm kích động cơ piston cuối cùng phục vụ cho Không quân Hoàng gia, có hai chiếc cùng với một số phiên bản Mark V được chuyển đổi sang mục tiêu giả kéo theo, và đó là vai trò cuối cùng mà nó đảm nhận khi nghỉ hưu vào năm [[Hàng không năm 1953|1953]].
 
Dòng 87:
 
==Các nước sử dụng==
[[ImageTập tin:486SqnVolkers1945.JPG|thumbnhỏ|Phi đội 486 [[Không quân Hoàng gia New Zealand]] tại Volkel, Hà Lan năm 1945]]
;{{CAN}}
* [[Không quân Hoàng gia Canada]]
Dòng 125:
==Tham khảo==
{{Reflist}}
*This article is based on "The Hawker Typhoon, Tempest, & Sea Fury", version 1.1, by [[Greg Goebel]]. The original version (placed in the public domain) can be accessedtruy cập at: http://www.vectorsite.net/avcfury.html .
*Hubert Lange quote from http://www.hawkertempest.se/