Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khúc Thừa Dụ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 26:
'''Khúc Thừa Dụ''' ([[chữ Hán]]: 曲承裕; trị vì: [[905]] - [[907]]) được suy tôn là '''Khúc Tiên Chủ''' (曲先主), là người đặt cơ sở cho nền độc lập [[người Việt (định hướng)|dân tộc Việt]] sau gần 1000 năm bị các triều đại [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] đô hộ.
 
==TuổiNguồn thơgốc==
Ông quê ở [[Hồng Châu]] ([[Ninh Giang]], [[Hải Dương]]). Là một dòng họ lớn lâu đời. Ông sống khoan hòa, hay thương người, được dân chúng mến phục.
 
Khúc Thừa Dụ quê quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang, Ninh Giang cũ ở Hải Dương), mấy đời là hào tộc mạnh, tính khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. <ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71</ref>
==Bối cảnh==
Cuối [[thế kỷ 9]], chính quyền trung ương [[nhà Đường]] suy yếu nghiêm trọng. Nạn cát cứ của quân phiệt địa phương ngày càng ác liệt. [[Khởi nghĩa Hoàng Sào]] ([[874]] - [[884]]) đã làm triều đình nhà Đường rung chuyển.
 
==Công lao sựSự nghiệp==
Cuối thế kỷ 9, đầu thế kỷ 10, nhà Đường suy yếu, rơi vào tay quyền thần [[Hậu Lương Thái Tổ|Chu Toàn Trung]], các thế lực cát cứ nổi lên đánh giết lẫn nhau, tạo ra thế chia cắt 5 đời 10 nước ([[Ngũ Đại Thập Quốc|Ngũ đại Thập quốc]]). Ở [[An Nam]] (lúc đó nhà Đường đổi gọi là [[Tĩnh Hải quân]]), [[Tiết độ sứ]] Chu Toàn Dục đã rất độc ác mất lòng người, bị gọi là "Ngục Thượng thư" (thượng thư ác). Sau đó Độc Cô Tổn thay Chu Toàn Dục, ông lại không cùng phe với Chu Ôn nên chỉ vài tháng lại bị Chu Ôn dời tiếp ra đảo [[Hải Nam]] và giết chết. An Nam do đó không có người của nhà Đường cử đến cai quản.
 
Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường- nước Tàu đô hộ, năm Kỹ Mão (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện, và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm
==Xây nền độc lập==
tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.<ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71</ref>
Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên<ref>Đất Chu Diên sau này đổi là Hồng Châu, nay là [[Ninh Giang]], [[Hải Dương]]</ref>, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành [[Đại La]] (Tống Bình cũ - [[Hà Nội]]), tự xưng là [[Tiết độ sứ]]<ref>[http://www.cinet.gov.vn/uploadfile/html/baoton_baotang/ditich/chitiet/HaiDuong/ditich/denthokhucthuadu2l.htm Đền thờ Khúc Thừa Dụ]</ref><ref>[http://www.toquoc.gov.vn/Print/Article/Khanh-Thanh-Den-Tho-Khuc-Thua-Du-O-Hai-Duong.html Khánh thành Đền thờ Khúc Thừa Dụ ở Hải Dương]</ref>.
 
Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết Độ Sứ để cai trị Giao Châu. Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tĩnh Hải Tiết Độ Sứ và gia phong Đồng Bình Chương Sự. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết Độ Sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu.<ref>Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr 70, 71</ref><ref[http://www.cinet.gov.vn/uploadfile/html/baoton_baotang/ditich/chitiet/HaiDuong/ditich/denthokhucthuadu2l.htm Đền thờ Khúc Thừa Dụ]</ref><ref>[http://www.toquoc.gov.vn/Print/Article/Khanh-Thanh-Den-Tho-Khuc-Thua-Du-O-Hai-Duong.html Khánh thành Đền thờ Khúc Thừa Dụ ở Hải Dương]</ref>.
 
''Việt sử thông giám cương mục'' (Tiền biên, quyển 5) viết: "Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ...".
 
SauKhúc khiThừa đãDụ nắm đượcdựng quyềnđô lực thựcLa tế trên đất ''Tĩnh Hải quân''Thành, ông đãlàm cho xây dựng chính quyềndân dựa trên danh xưng của chính quyền đô hộ nhà Đườngyên, nhưng thực chất là một chính quyền độc lập vànước do người Việt quản lýtrị. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông. Ngày [[7 tháng 2]] năm [[906]], vua Đường phong thêm cho [[Tĩnh Hải quân]] Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự". Sau đó, Khúc Thừa Dụ tự lấy quyền mình, phong cho con là Khúc Hạo chức vụ "Tĩnh Hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu", tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ kế vị quyền Tiết độ sứ. Ngày [[23 tháng 7]] năm [[907]], Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là [[Khúc Hạo]] lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng sử gia Lê Tung viết trong sách Việt giám thông khảo tổng luận gọi Khúc Thừa Dụ là ''Khúc Tiên chúa''.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1, tr 121</ref>
==Tham khảo==
 
*[[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]] Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1998, tập 1.
Ngày [[23 tháng 7]] năm [[907]], Khúc Thừa Dụ mất. Con ông là [[Khúc Hạo]] lên kế vị. Dù ông không xưng vương xưng đế, nhưng đời sau nhớ ơn và gọi ông là ''Khúc Tiên chủ''..
*[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]]
 
*Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt, 1968
==Công lao sự nghiệp==
*[[Việt sử lược]]
Khúc Thừa Dụ được xem là người mở đầu cho chính sách ngoại giao khôn khéo của người Việt đối với triều đình phương Bắc: "độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa". Tuy còn chính quyền vẫn còn mang danh hiệu của nhà Đường, nhưng về thực chất, Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ, về cơ bản kết thúc ách thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là người đầu tiên đặt cơ sở lấy lại nền độc lập dân tộc từ khi nước Nam Việt rơi vào tay nhà Hán.
*Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
 
*An Nam chí lược, Viện Đại học huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961, bản điện tử.
==Xem thêm==
*[[Thời kỳ tự chủ Việt Nam|Tự chủ]]