Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tripoli”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: tháng 4, 19 → tháng 4 năm 19, tháng 6, 19 → tháng 6 năm 19, tháng 10, 19 → tháng 10 năm 19, tháng 12, 19 → tháng 12 năm 19 (2) using AWB
n →‎Thế kỷ 16–19: replaced: chôn cất → chôn cất using AWB
Dòng 63:
Cuộc chiến với hải tặc đã diễn ra từ trước tại căn cứ của chúng trên đảo Rhodes, lý do mà các Hiệp sĩ được cử đến và gánh vác nhiệm vụ quản lý thành phố là để ngăn cản sự tái xuất hiện của các hải tặc Barbary, những kẻ đã hoạt động từ trước thời kỳ chiếm đóng của Tây Ban Nha. Sự gián đoạn hoạt động của những tên cướp biển trên các tuyến đường vận chuyển của Kitô giáo trong Địa Trung Hải được cho là kết quả của việc Tây Ban Nha chinh phục thành phố.
 
Các hiệp sĩ tiếp tục giữ thành phố với một số rắc rối cho đến năm 1551, khi họ buộc phải đầu hàng Ottoman, dẫn đầu bởi một người Thổ Hồi giáo tên là [[Turgut Reis]].<ref>{{chú thích sách |author= Reynolds, Clark G. |title= Command of the sea: the history and strategy of maritime empires |publisher= Morrow |year= 1974 |pages= 120–121 |isbn= 0688002676, 9780688002671 |quote= Ottomans extended their western maritime frontier across North Africa under the naval command of another Greek Moslem, Torghoud (or Dragut), who succeeded Barbarossa upon the latter's death in 1546.}}</ref> Turgut Reis sau đó giữ chức tổng trấn của Tripoli, trong thời gian cai trị của mình, ông đã cho trang hoàng và xây dựng thành phố, làm cho nó trở thành một trong những thành phố ấn tượng nhất dọc theo bờ biển Bắc Phi.<ref>{{chú thích sách |author= Braudel, Fernand |title= The Mediterranean and the Mediterranean world in the age of Philip II, Volume 2 |publisher= University of California Press |year= 1995 |pages= 908–909 |isbn= 0520203305, 9780520203303 |quote=Of all the corsairs who preyed on Sicilian wheat, Dragut (Turghut) was the most dangerous. A Greek by birth, he was now about fifty years old and behind him lay a long and adventurous career including four years in the Genoese galleys. }}</ref> Turgut được [[chôn cất]] tại Tripoli sau khi ông chết năm 1565. Cơ thể của ông được đem về từ Malta, nơi ông đã chiến đấu cho đế chế Ottoman để bao vây hòn đảo, ông có ngôi mộ trong một nhà thờ Hồi giáo, nơi ông đã thành lập gần cung điện của mình tại Tripoli. Cung điện đã biến mất (được cho là nằm giữa "nhà tù Ottoman" và khung vòm Marcus Aurelius), nhưng nhà thờ Hồi giáo, cùng với ngôi mộ của ông, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay và nằm gần cổng Bab Al-Bahr.
 
Sau khi bị người Thổ Ottoman xâm chiếm, Tripoli một lần nữa đã trở thành một căn cứ của hải tặc Barbary. Một trong nhiều nỗ lực của phương Tây nhằm chống lại chúng là cuộc tấn công của Hải quân Hoàng gia dưới sự chỉ huy của John Narborough năm 1675, trong đó có một nhân chứng đã sống sót.<ref>The Diary of [[Henry Teonge]] Chaplain on Board HM’s Ships Assistance, Bristol and Royal Oak 1675–1679. The Broadway Travellers. Edited by Sir E. Denison Ross and Eileen Power. London: Routledge, [1927] 2005. ISBN 978-0-415-34477-7</ref> Việc Ottoman cai trị trong thời gian này (1551-1711) thường bị cản trở bởi các đội quân địa phương Janissary. Có chức năng là cơ quan thực thi quyền lực chính quyền tại địa phương, đại tá Janissaries và bạn bè của ông thường thường được coi là những người cai trị Tripoli trên thực tế.