Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Grumman F4F Wildcat”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: sửa lỗi chính tả
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
Dòng 22:
 
== Thiết kế và phát triển ==
[[Tập tin:F4F-4_Wildcat.jpg|thumbnhỏ|Grumman F4F-4 Wildcat thuộc Phi Đội VF-41, đầu năm 1942.]]
Chiếc F4F-1 bắt đầu là phác thảo một kiểu máy bay cánh kép không được chế tạo để tham gia đấu thầu cho Hải quân, nhưng đã bị loại bởi chiếc máy bay cánh đơn [[Brewster Buffalo|Brewster Buffalo F2A-1]]. Nó được biến cải toàn bộ thành một máy bay cánh đơn ký hiệu XF4F-2<ref name="donald wildcat"> Donald 1995 p. 128-134.</ref> rồi tiếp tục đem ra đánh giá so sánh với Buffalo; và mặc dù XF4F-2 hơi nhanh hơn, Buffalo vẫn vượt trội và được chọn để sản xuất.<ref name="donald wildcat"/>. Nguyên mẫu của Grumman được thiết kế lại dưới tên XF4F-3 với cánh và đuôi mới và một phiên bản siêu tăng áp của động cơ hình tròn [[Pratt & Whitney]] R-1830 "Twin Wasp".<ref name="donald wildcat"/><ref name="green 4 F4f"> Green 1961, p. 90-96.</ref> Thử nghiệm trên chiếc XF4F-3 đưa đến việc đặt hàng kiểu mẫu sản xuất thử F4F-3, chiếc đầu tiên hoàn tất vào [[tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]. Pháp cũng đặt hàng kiểu này, gắn động cơ [[Wright R-1820]] "Cyclone 9" hình tròn, nhưng Pháp thất thủ trước khi được giao hàng và những chiếc này được giao cho [[Hải quân Hoàng gia Anh]] và được đặt tên là "Martlet I". F4F-3 của Anh và Mỹ đều đưa vào sử dụng từ năm [[Hàng không năm 1940|1940]] và đều được trang bị 4 súng máy Browning cỡ 0,50 in<ref name="green 4 F4f"/>.
 
Dòng 30:
 
== Lịch sử hoạt động ==
[[Tập tin:GrummanF4F-4 VF-111 Guadalcanal.jpg|thumbnhỏ|Grumman F4F-4 thuộc Phi Đội VF-11 trong [[trận đánh Guadalcanal]], 1942.]]
[[Tập tin:F4F Suwanee.jpg|thumbnhỏ|Grumman F4F-4 Wildcat trên chiếc tàu sân bay hộ tống [[USS Suwannee (CVE-27)]] vào cuối năm 1942.]]
F4F được [[Hải quân Hoàng gia Anh]] dùng thay thế tạm thời cho [[Fairey Fulmar]], phiên bản dành cho Hải quân [[Supermarine Spitfire]] chưa có vì nhu cầu rất lớn của [[Không quân Hoàng gia Anh]].<ref>Buttler, Tony. British Secret Projects - Fighters & Bombers 1935-1950</ref> Trên chiến trường Châu Âu, Wildcat ghi được chiến công đầu tiên ngày [[Giáng Sinh]] năm 1940, khi chiếc Martlet (tên gọi khi phục vụ tại Anh) đặt căn cứ trên đất liền tiêu diệt 1 chiếc máy bay ném bom [[Junkers Ju 88]] bên trên căn cứ Hải quân [[Scapa Flow]].<ref name="thetp201"/> Đây là chiến công đầu tiên của một máy bay Mỹ phục vụ trong quân đội Anh trong Thế Chiến II<ref name="thetp201"> Thetford 1978, p. 201.</ref>. Kiểu máy bay này cũng tham gia tác chiến trên những chiếc [[tàu sân bay hộ tống]] nhỏ hơn.<ref> Gustin, Emmanuel. ''Grumman F4F Wildcat''. [http://users.skynet.be/Emmanuel.Gustin/history/f4f.html Grumman F4F Wildcat] Access date: [[15 April]] [[2007]].</ref> 6 chiếc cất cánh từ chiếc [[HMS Audacity (D10)|HMS ''Audacity'']] cải biến từ tàu buôn cũ của Đức khoảng giữa năm 1941 và bắn rơi nhiều chiếc máy bay ném bom [[Fw 200 Condor]] của Đức Quốc Xã trong những chiến dịch hộ tống vận tải rất hiệu quả.<ref name="thetp202"> Thetford 1978, p. 202.</ref> Đây là một trong những lần đầu tiên Wildcat xuất kích từ hạm đội. Hải quân Hoàng gia sau đó từ bỏ cách gọi tên riêng của họ cho những máy bay cung cấp từ Mỹ, và bắt đầu dùng tên của Hải quân Mỹ thay thế. <ref name="thetp205"> Thetford 1978, p. 205.</ref>
 
Dòng 52:
 
Việc thiếu hụt bộ siêu tăng áp 2 tầng đưa đến việc phát triển kiểu '''F4F-3A''', căn bản vẫn là chiếc F4F-3 nhưng có động cơ Pratt & Whitney R-1830-90 bố trí kiểu vòng tròn 1.200 mã lực chỉ có bộ [[siêu tăng áp]] đơn giản một tầng 2-tốc độ. Chiếc F4F-3A, đạt được tốc độ 312 mph ở 16.000 ft, được sử dụng song song cùng F4F-3, nhưng tính năng bay kém hơn nên không được phi công Hải quân Mỹ ưa chuộng. F4F-3A sử dụng ở Anh dưới tên '''Martlet III(B)'''.
[[Tập tin:F4F Wasp 1942.jpg|thumbnhỏ|Những chiếc Grumman F4F-4 Wildcat trên tàu sân bay [[USS Wasp (CV-7)]], 1942.]]
Một phiên bản mới, '''F4F-4''', đưa vào hoạt động năm [[1942]] với 6 súng máy và cánh gấp, cho phép xếp nhiều máy bay hơn trên tàu sân bay; đây là phiên bản hoạt động cuối cùng và là kiểu tham gia hoạt động chiến đấu nhiều nhất trong những năm đầu của chiến tranh, bao gồm [[Trận chiến Midway]].Phiên bản này cũng ít được ưa chuộng, vì cùng một lượng dự trữ đạn lại phải trãi ra cho thêm 2 khẩu súng máy, làm giảm thời gian tác xạ.<ref>[http://www.ibiblio.org/hyperwar/USN/ships/logs/CV/cv5-Midway.html "Battle of Midway Action Report, USS Yorktown (CV-5): F4F-4 Airplanes"]</ref>
Với 4 súng máy cỡ nòng 0,50 in và 450 viên đạn mỗi khẩu của chiếc F4F-3, phi công bắn được 34 giây; trong lúc 6 súng máy chỉ có 240 viên mỗi khẩu và bắn được 20 giây. Việc tăng số súng máy là do Hải quân Hoàng gia, muốn có hỏa lực mạnh hơn để đối phó với kẻ thủ Đức và Ý. Jimmy Thach được cho là đã nói "Một phi công không thể bắn trúng với 4 súng máy cũng sẽ trượt với 8 khẩu." <ref>[http://www.microsoft.com/games/combatfs2/articles_thatch_interview.asp "Excerpts from a 1942 Interview with Lt. Cdr. John S. Thach"]</ref> Thêm súng và cánh xếp làm nặng thêm và giảm tính năng bay, F4F-4 chỉ đạt được vận tốc 318 mph ở 19.400 ft. Tốc độ lên cao càng kém hơn đáng kể: trong khi Grumman ước đoán lạc quan nó sẽ đạt ít nhất 1.950 ft mỗi phút, trong hoàn cảnh chiến đấu phi công nhận thấy F4F-4 chỉ lên cao được 500 đến 1.000 ft mỗi phút.<ref>[http://uboat.net/allies/aircraft/wildcat.htm "UBoat.net: rate of climb ... noticeably worse in the F4F-4"]</ref> Hơn nữa, cánh gấp của F4F-4 dự định cho phép xếp được 5 chiếc vào chỗ của 2 chiếc F4F-3, nhưng trong thực hành nó chỉ giúp tăng được khoảng 50% lượng máy bay Wildcat chở được trên những tàu sân bay hạm đội của Mỹ. Một biến thể của F4F-4, tên gọi '''F4F-4B''' cho những mục đích hợp đồng, được giao cho Anh với nắp cải tiến và động cơ Wright Cyclone, được đặt tên lại là '''Martlet IV'''.
Dòng 68:
 
== Đặc điểm kỹ thuật (F4F-4) ==
[[Tập tin:F4F4 Browning.jpg|thumbnhỏ|F4F-4 đang được bảo trì 6 khẩu súng máy [[M2 Browning]].]]
=== '''Đặc điểm chung''' ===
* Đội bay: 01 người