Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Nhật Duật”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 35:
== Nhà ngoại giao tài ba ==
Ngày 24 tháng 2 âm lịch năm 1258, sau khi [[Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1|chiến thắng]] quân xâm lược [[đế quốc Mông Cổ|Mông Cổ]], vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Hoảng, tức [[Trần Thánh Tông]], rồi lên làm [[thái thượng hoàng]]. Tháng 8 âm lịch năm 1267, Trần Nhật Duật được Thánh Tông phong làm Chiêu Văn vương.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=180}}
Trần Nhật Duật nổi tiếng là người hiểu nhiều biết rộng, rất tôn sùng [[Đạo giáo]], thâm sâu kinh điển Đạo gia.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=241-242.}} Ông còn thông thạo nhiều ngoại ngữ và hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả phong tục tập quán của họ. Ông cũng rất hay giao du, thăm hỏi người Chiêm, người Tống trong nước. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, ông hay cưỡi voi đi thăm thôn Bà Già (trước có tên là thôn Đa Gia Ly, nơi định cư của tù binh Chiêm sau khi [[Lý Thánh Tông]] chinh phục Chiêm Thành năm 1069), có những lần ông ở chơi tới 3, 4 ngày mới về. Ông cũng thường ghé thăm chùa Tường Phủ, lưu lại đây cả ngày để đàm đạo với tăng sĩ người Tống. Do ông giao tiếp rộng như vậy, những người ngoại quốc đến Thăng Long rất hay đến chơi nhà ông. Ông rất biết cách đón tiếp khách theo đúng phong tục, tập quán của họ. Thời Trần Anh Tông, khi đã làm tể tướng, Nhật Duật vẫn thường ghé thăm nhà người Tống là Trần Đạo Chiêu, trò chuyện say sưa suốt hàng tiếng đồng hồ. Ngoài ra, ông cũng là người tinh thông [[âm nhạc]], đã chế tác ra nhiều tiết tấu, giai điệu múa hát.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=241-242.}}{{sfn|Phan Huy Chú|2007a|p=370}}
Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được triều đình
{{cquote|''Chiêu Văn Vương có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc, nên giỏi tiếng các nước đó.''|||Trần Nhân Tông}}▼
Thản nhiên đi giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật, Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang:''"Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải."''
Hàng 50 ⟶ 53:
Trần Nhật Duật nói:''"Chúng ta xưa nay vẫn là anh em"''. Trịnh Giác Mật nhanh chóng chịu quy thuận. Nhật Duật dẫn Giác Mật và gia quyến vào Thăng Long, bái kiến vua Trần Nhân Tông. Nhà vua hết sức ca ngợi ông. Nhân Tông tha Giác Mật về Đà Giang, giữ vợ con Mật ở lại kinh sư. Những người này được Trần Nhật Duật chăm nuôi chu đáo; ông còn xin vua phong cho họ tướng thượng phẩm và cử họ trông coi ao cá. Về sau triều đình cũng cho họ về nhà. Việc Trần Nhật Duật "không mất một mũi tên mà bình được Đà Giang" khiến nhà Trần yên ổn được biên giới Tây Bắc để tập trung chống quân Mông Nguyên.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=187}}<ref name="chientranhvequoc1285"/>
▲Cũng vào thời Trần Nhân Tông, có lần nước Sách Mã Tích (có thể là Tumasik, tức [[Singapore]] ngày nay) sang triều cống, triều đình lại không được người nào biết tiếng để phiên dịch. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã đứng ra phiên dịch giúp vua. Khi được hỏi làm sao ông hiểu tiếng Sách Mã Tích, Nhật Duật đáp: ''"Thời Thái Tông, sứ nước ấy sang nhân có giao du với họ nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ"''. Tài ngoại ngữ của ông đã khiến vua Trần Nhân Tông phải tấm tắc ca ngợi:{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=241}}
▲{{cquote|''Chiêu Văn Vương có lẽ là kiếp sau của người phiên lạc, nên giỏi tiếng các nước đó.''|||Trần Nhân Tông}}
== Đánh quân Nguyên-Mông (1285, 1287-88) ==
|