Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Christiaan Huygens”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: sửa lỗi chính tả
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
Dòng 30:
</ref> được xuất bản vào năm [[1657]].
 
Ông cũng làm việc trong lĩnh vực thiết kế những chiếc [[đồng hồ]] chính xác, cần thiết cho hải quân. Vào năm 1658, ông xuất bản một cuốn sách trong lĩnh vực này có tên là ''Horologium''. Năm [[1657]] ông đăng ký sáng chế cho phát minh [[đồng hồ quả lắc]], phát minh đã tạo ra một bước tiến lớn trong lĩnh vực đồng hồ. Bộ phận đáng chú ý do Huygens phát minh là [[cái hồi]], đây là bộ phận giúp điều chỉnh lại tốc độ của [[đồng hồ]] và đồng hồ đeo tay. Ông cũng áp dụng chứng minh của mình về tính đẳng thời của [[đường tròn đơn vị#đường cycloid|đường Cycloid]] để tạo ra các má cycloid giúp hệ thống treo quả lắc hoạt động được trơn chu hơn, bảo đảm cho chuyển động đều của quả lắc bất chấp biên độ lớn của dao động, bất chấp làm thế nào mà quả lắc dịch chuyển liên tục từ bên này sang bên kia. Phần lý thuyết toán học và ứng dụng cụ thể của phát hiện này được in trong sách ''Horologium Oscillatorium'' năm [[1673]]. Huygens cũng quan sát được hiện tượng hai quả lắc được treo trên cũng một thanh xà chuyển động theo các hướng trái ngược nhau một cách hoàn hảo, hiện tượng này ông gọi là ''sự đồng điệu kì lạ'' ngày nay biết dưới cái tên [[cộng hưởng]]. Trái với những điều mà phần lớn mọi người nghĩ, Huygens không phải một thợ đồng hồ, và được biết đến là một người không tự làm đồng hồ cho bản thân. Ông là một học giả, một nhà khoa học và một nhà phát minh, và chiếc đồng hồ quả lắc cổ nhất được biết đến là được làm "với đặc quyền" - sự cho phép của Huygens - bởi tay của thợ đồng hồ Salomon Coster ở [[Den Haag]]. Chiếc đồng hồ quả lắc cổ nhất còn được biết đến theo mẫu của Huygens năn [[1657]] có thể tìm thấy ở bảo tàng Boerhaave tại Leiden<ref> Hans van den Ende: "Huygens's Legacy, The Golden Age of the Pendulum Clock", Fromanteel Ldt., 2004, </ref><ref>van Kersen, Frits & van den Ende, Hans: Oppwindende Klokken - De Gouden Eeuw van het Slingeruurwerk 12 September - 29 Novembertháng 11 năm 2004 [Exhibition Catalog Paleis Het Loo]; Apeldoorn: Paleis Het Loo, 2004 </ref><ref> Hooijmaijers, Hans; Telling time - Devices for time measurement in museum Boerhaave - A Descriptive Catalogue; Leiden: Museum Boerhaave, 2005 </ref><ref>Không có tên tác giả; Chistiaan Huygens 1629-1695, Chương 1: Slingeruurwerken; Leiden: Museum Boerhaave, 1988 </ref>, tại đó cũng trưng bày cả chiếc đồng thiên văn vô cùng quan trọng của Huygens. Một phát triển khác trong kỹ thuật chế tạo đồng hồ của Huygens là đồng hồ lên dây cót, sáng chế này được ông thực hiện cùng thời điểm với sáng chế của [[Robert Hooke]], dẫn đến cuộc tranh cãi về ai là chủ của sáng chế này kéo dài đến hàng thế kỉ. Vào tháng 2 năm 2006, bản photo bị mất tích của một bản viết tay của Hooke đã được tìm thấy ở Hampshire, cuộc tranh cãi về chiếc đồng hồ lên dây đến đây kết thúc nhờ những bản photo này.<ref> nature - International Weekly Journal of Science, số 439, trang 638-639, 9 tháng 2 năm 2006 </ref> <ref> Các bản ghi từ Hội Hoàng gia Luân Đôn (2006) 60, trang 235-239, 'Report - The Return of the Hooke Folio' viết bởi Robyn Adams và Lisa Jardine </ref>
 
Ngày [[3 tháng 5]] năm [[1661]], ông cùng hai nhà thiên văn học Thomas Streete và Richard Reeveshe đã quan sát và nhận thấy rằng [[sao Thủy]] quay quanh [[Mặt Trời]], qua kính viễn vọng Richard Reeves ở London. <ref>Peter Louwman, Christiaan Huygens and his telescopes, Proceedings of the International Conference from discovery to Encounter, 13 –17 Apriltháng 4 năm 2004, ESTEC, Noordwijk, The Netherlands, ESA, sp 1278, Paris 2004</ref>
 
[[Hội Hoàng gia Luân Đôn]] bầu Huygens thành một thành viên vào năm [[1663]]. Năm 1666 Huygens chuyển đến [[Paris]], nơi mà ông nắm giữ một vị trí trong [[Viện Hàn lâm Khoa học Pháp]] dưới sự bảo trợ của [[Louis XIV của Pháp|Louis XIV]]. Sử dụng [[Đài thiên văn Paris]] (hoàn thành vào năm 1672), ông đã mở rộng tầm nhìn của [[thiên văn học]]. Năm 1684 ông xuất bản cuốn sách ''Astroscopia Compendiaria'' mà trong đó ông có giới thiệu đến loại kính viễn vọng mới của ông.