Khác biệt giữa bản sửa đổi của “It's Not Me, It's You”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
KamikazeBot (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 38:
| single 2 = [[Not Fair]]
| single 2 date = 20 tháng 3 năm 2009
| single 3 = [[Fuck You (bài hát của Lily Allen)|Fuck You]]
| single 3 date = 18 tháng 5 năm 2009
| single 4 = [[22 (bài hát)|22]]
Dòng 44:
| single 5 = [[Who'd Have Known]]
| single 5 date = 30 tháng 11 năm 2009
| single 6 = [[Back to the Start (bài hát)|Back to the Start]]
| single 6 date = 17 tháng 4 năm 2010 (chỉ ở Úc)
}}}}
Dòng 53:
Tháng 4 năm 2008, Allen tuyên bố rằng cô sẽ có một "hướng đi mới" trong album tới.<ref>{{chú thích web|url=http://www.lilyallenmusic.com/emi-site/site.php?page=blog&item=1734415|title=Yagga Yo|publisher=Lily Allen official site blog archive}}</ref> Một năm sau, trong số ra tháng 4 năm 2009 của tờ Teen Vogue, cô đã mô tả về âm hưởng của album mới là "khá vui nhộn" và có "rất nhiều thể loại nhạc khác nhau như nhạc đồng quê, jazz và điện tử". Cô tiếp tục nói rằng, "Tôi muốn làm một điều gì đó có thể nhảy được, làm những buổi biểu diễn thêm thú vị cho tôi và cho người xem".<ref>{{chú thích web|title=Total Request|work=Teen Vogue|url=http://www.teenvogue.com/industry/2009/03/spring-music-preview?slide=4|accessdate=2010-07-01}}</ref>
 
Allen đã thu âm phần lớn album của mình tại Eagle Rock Studios ở Los Angeles với nhà sản xuất [[Greg Kurstin]] của ban nhạc [[The Bird and the Bee]].<ref name=release>[http://www.nme.com/news/lily-allen/40732 Lily Allen announces US release of second album]. [[NME]], 29 tháng 10 năm 2008.</ref><ref name=naughty>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/lily-allen/37790|title=Lily Allen gets 'Naughty' on new album|publisher=[[NME]]|date=2008-07-01|accessdate=2010-07-01}}</ref> Họ bắt đầu việc thu âm vào mùa thu 2007 và Allen đã phát biểu:<blockquote>Chúng tôi quyết định thử và làm ra những âm thanh lớn hơn, nhiều những ca khúc hay hơn, những ca khúc thật sự. Tôi muốn làm việc với một người từ đầu đến cuối để để công việc được thống nhất. Tôi muốn nó nguyên vẹn. Tôi nhớ ca khúc đầu tiên chúng tôi thực hiện là "I Could Say", nó tạo cảm hứng cho cả album. Tôi nghĩ rằng tôi đã ngườitrưởng lớnthành hơn một chút và tôi hi vọng điều đó sẽ ảnh hưởng đến album của tôi.<ref>{{chú thích web|url=http://www.mtvasia.com/Music/FeaturedArtist/LilyAllen/main.html|title=Lily Allen|publisher=[[MTV châu Á]]}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.tinmoi.vn/Lily-Allen-tung-mat-kiem-soat-cuoc-song-02347.html|title=Lily Allen từng mất kiểm soát cuộc sống|publisher=TinMoi.vn|date=2009-02-19|accessdate=2010-07-01}}</ref></blockquote>
 
===Các bản demo MySpace===
Trước khi phát hành album, Allen đã đăng một số demo trên trang [[MySpace]] của cô.<ref>{{chú thích web|url=http://www.blender.com/IntheStudioLilyAllen/articles/42264.aspx|title=In the Studio: Lily Allen|last=Romano|first=Tricia|date=2008-10-01|work=Blender|accessdate=2010-07-01}}</ref> Hai ca khúc đầu tiên xuất hiện là "I Could Say" và "I Don't Know" vào 20 tháng 3 năm 2008, và ca khúc thứ hai sau này đã được đổi tên và phát hành làm đĩa đơn mở đầu cho album, "[[The Fear (bài hát)|The Fear]]". Dựa trên hai demo đầu tiên, [[Digital Spy]] mô tả hướng đi nghệ thuật của cô là trưởng thành hơn, có suy nghĩ hơn và điện tử hơn.<ref>{{chú thích web|url=http://www.digitalspy.co.uk/music/a94375/are-lily-allens-new-songs-any-good.html|title=Are Lily Allen's new songs any good?|author=Nick Levine|publisher=[[Digital Spy]]|date=2008-04-22|accessdate=2010-07-01}}</ref>
 
Một ca khúc thứ ba từng gặp những nghi ngại về nhắc đến một vấn đề chính trị đã được đăng sau đó, với tựa đề "Guess Who Batman" và sau đó "Get With the Brogram", cuối cùng là "GWB". Do những cái tên đều có cùng những chữ cái viết hoa như [[George W. Bush]], ca khúc được cho là sự phản đối của Allen về chính sách chiến tranh của ông. Tuy vậy, Allen đã viết, "Bài hát này không tấn công trực tiếp đến ai, nó nguyên gốc chỉ viết về [[Đảng Quốcquốc gia Anh|BNP]] ở Anh nhưng sau đó tôi cảm thấy chuyện này có liên quan đến nhiều việc khác ở khắp nơi. Chúng ta là tuổigiới trẻ, chúng ta có thể làm nguội tương lai của chúng ta, nó đến với chúng ta."<ref>{{chú thích web|url=http://www.dose.ca/music/story.html?id=3ce96f2d-0d7b-420a-a211-9452548df554|title=Lily Allen 'Makes Coolness for our Future' -- whatever that means -- with New Track|author=Leah Collins|publisher=Dose.ca|date=2008-06-23|accessdate=2010-07-01}}</ref> Ca khúc đã được đổi tên thành "[[Fuck You (bài hát)|Fuck You]]" ở phiên bản album.
 
Ca khúc thứ tư được Allen đăng lên trang MySpace có tên "Who'd of Known", cô chú thích rằng ca khúc này đã được thu âm cho album nhưng sẽ không có mặt do vấn đề về bản quyền, khi phần điệp khúc của bài hát có phần nhạc tương tự với bài hát "[[Shine (bài hát của Take That)|Shine]]" của [[Take That]].<ref name=shine>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/lily-allen/41497|title=Lily Allen: 'I accidentally flashed my breasts at Blur's Damon Albarn'|publisher=[[NME]]|date=2008-12-08|accessdate=2010-07-01}}</ref> Tuy nhiên, sau đó Take That đã đồng ý cho Allen phát hành ca khúc cho album (nay tiêu đề ca khúc đã được sửa lỗi ngữ pháp thành "[[Who'd Have Known]]").<ref name=shine/>
 
Ngày 2 tháng 2, Allen đã tải tất cả 12 track từ album này lên trang cá nhân MySpace của mình và cho phép mọi người có thể nghe.
 
==Phát hành==
Tháng 5 năm 2008, Allen nói với tờ ''The Sunday Mirror'' rằng album đã sắp hoàn thành và cô sắp thực hiện một chuyến lưu diễn quy mô lớn.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/lily-allen/36700|title=Lily Allen close to completing second album|publisher=[[NME.com]]|date=2008-05-18|accessdate=2010-07-01}}</ref> Tháng 8 năm 2008, giải thích về sự chậm trễ của việc phát hành album, Allen đổ lỗi cho công ti thu âm của cô [[EMI]]/[[Parlophone]].<ref>{{chú thích web|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article4568162.ece|title=Lily Allen hits out at EMI over album delay|date=2008-08-19|author=Zoe Blackler|publisher=[[Times Online]]|accessdate=2010-07-01|location=Luân Đôn}}</ref> Ngày 15 tháng 9, cố thông báo qua trang blog MySpace của mình rằng album sẽ được phát hành vào ngày 9 tháng 2 năm 2009.<ref>{{chú thích web|url=http://www.gigwise.com/news/48046/Lily-Allen-Amy-Winehouse-Given-Hard-Time-By-Media | title = Lily Allen: 'Amy Winehouse Given Hard Time By Media' | author = Jason Gregory|publisher=Gigwise.com|date=2008-12-08|accessdate=2010-07-01}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.guardian.co.uk/music/2009/jan/18/lily-allen-album-review|title = Pop review: Lily Allen, It's Not Me, It's You |author=Garry Mulholland|publisher=guardian.co.uk|work=Guardian Media Group|date=2008-01-18|accessdate=2010-07-01}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.clashmusic.com/reviews/lily-allen|title=CD Album Review: Lily Allen, 'It's Not Me, It's You'|author=Natasha Arico|date=2009-01-23|accessdate=2010-07-01}}</ref>
 
Về tiêu đề của bài hát, tháng 7 năm 2008, tiêu đề của album được xác nhận là ''Stuck on the Naughty Step''.<ref name=naughty/> Ngày 7 tháng 10, tại [[Broadcast Music Incorporated]] Awards, Allen thông báo rằng tựa đề đã được đổi thành ''It's Not Me, It's You'', do "không thích sự dài dòng của tên gốc".<ref name=release/>
Dòng 76:
 
==Lưu diễn==
{{chính|ChuyếnIt's lưuNot diễnMe, hoàIt's nhạcYou củaWorld Lily Allen (2009)Tour}}
 
Năm 2009, Allen đã có tổng cộng 81 show diễn quốc tế để quảng cáo cho ''It's Not Me, It's You''.
Dòng 83:
* "[[The Fear (bài hát)|The Fear]]": Allen đã thông báo trên trang MySpace của cô là "The Fear" đã được chọn làm đĩa đơn mở đầu. Ca khúc được hát lần đầu trong [[Scott Mills|The Scott Mills Show]] ngày 1 tháng 12 năm 2008. Video âm nhạc chính thức cho ca khúc được phát lần dầu ngày 4 tháng 12 trên Channel 4, nhưng nó đã bị rò rỉ trước ngày phát hành và đã được tải lên [[YouTube]] 2 giờ trước khi được phát chính thức<ref>{{cite video|url=http://www.youtube.com/watch?v=q-wGMlSuX_c|title=Lily Allen - Fear|publisher=[[YouTube]]|medium=Video}}</ref> và trong khoảng thời gian này đã có khoảng 200 lượt xem. Nó đã được phát hành trên [[iTunes|iTunes châu Âu]] ngày 4 tháng 12.
* "[[Not Fair]]" đã phát hành ngày 20 tháng 3 qua download số và ngày 16 tháng 5 dưới dạng đĩa CD. "Not Fair" đã được chơi bởi DJ Ken Bruce trên BBC Radio 2 ngày trước khi album phát hành, được chỉnh sửa đến mức chỉ dài 2:04, xoá đi câu "Oh I lie here in the wet patch in the middle of the bed, I'm feeling pretty damn hard done by, I've spent ages giving head".
* "[[Fuck You (bài hát của Lily Allen)|Fuck You]]": "Fuck You" đã được phát hành làm đĩa đơn thứ ba từ album ngày 19 tháng 5 năm 2009. Nó đã được phát hành trên iTunes Úc ngày 22 tháng 4 nhưng là phiên bản sạch, khác với bản trên EP "The Fear" và bản trên album. Ca khúc đã được chơi nhiều lần trên các đài phát thanh ở Úc, Nova và [[Triple J]]. Ở Hà Lan, ca khúc được phát hành làm đĩa đơn thứ hai.
* "[[22 (bài hát)|22]]" đã được phát hành làm đĩa đơn chính thức thứ tư của album ngày 14 tháng 7 năm 2009. Trước đó ngày 31 tháng 5, Allen đã khẳng định điều này qua trang [[Twitter]] của cô. Video được phát hành ngày 11 tháng 7 năm 2009.
* "[[Who'd Have Known]]" là đĩa đơn thứ năm (thứ tư ở Anh) và là đĩa đơn chính thức cuối cùng từ album, phát hành 23 tháng 11 năm 2009. Ở Hoa Kỳ, nó được phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009.
* "[[Back to the Start (bài hát)|Back to the Start]]": Ca khúc đã được chơi trên nhiều sóng phát thanh ở Úc, xếp hạng trong các bảng xếp hạng đếm ngược mỗi tối và được coi là đĩa đơn thứ năm ở Úc.<ref>{{chú thích web|url=http://www.aumreport.com/Chart_News.html|title=Chart News|work=Australian Music Report|accessdate=2009-12-26|archiveurl=http://www.webcitation.org/5mJ5AFT6F|archivedate=2009-12-26}}</ref> Nó đạt vị trí 21 trên Australian Airplay Chart.<ref>{{chú thích web|url=http://www.aumreport.com/amr100.html|archiveurl=http://www.webcitation.org/5o3D4adtB|archivedate=2010-03-07|work=Australian Music Report|title=Top 100 singles chart|accessdate=2010-07-01}}</ref>
 
===Bài hát khác===
* "[[Womanizer (bài hát)|Womanizer]]": Ngày 13 tháng 12 năm 2008 Allen tiết lộ cô đã cover đĩa đơn hit Womanizer của [[Britney Spears]]. Khi được hỏi, cô nói rằng cô chỉ thu âm nó với các nhà sản xuất cho vui và "nó thực sự tuyệt vời".<ref name=womanizer>{{chú thích web|url=http://britneyspearsblackout.com/?p=6786|title=Lily Allen cover 'Womanizer' by Britney Spears|publisher=Britney Spears Blackout|date=2008-12-13|accessdate=2010-07-01}}</ref> Ca khúc không có mặt trong ''It's Not Me, It's You'' nhưng đã có mặt ở EP ''[[F.U.E.P.]]'' trên iTunes.
* "Everyone's at It" đã được mong làm đĩa đơn đầu tiên từ album nhưng sau đó "The Fear" đã được chọn. Ca khúc đã được phát hành trên radio ở Úc và là đĩa đơn thứ hai ở đây.
* "Chinese": Một ca khúc hợp xướng thể hiện bởi Capital Children's Choir là để dành tặng Allen từ người lập ra dàn hợp xướng này [[Rachel Santesso]], người thầy dạy nhạc – người bạn của Allen năm cô 11 tuổi.<ref>{{cite news|url=http://www.vancouversun.com/entertainment/UVic+student+helped+create+British+star+Lily+Allen/1758955/story.html|title=UVic student helped create British star Lily Allen|first=Jack|last=Knox|work=The Vancouver Sun|date=2009-07-04}}{{Dead link|date=Tháng 12 năm 2009}}</ref>. Đài truyền thanh Nova ở Úc đã chơi ca khúc này.<ref>{{chú thích web|url=http://www.novafm.com.au/nova100/Article_Nova-Playlist-WC-17-03-10_98932?s=161|title=Nova Playlist WC 17/03/10|publisher=Nova|accessdate=2010-03-30}}</ref>
 
==Danh sách bài hát==
Dòng 112:
| length5 = 4:04
| writer5 = Allen, Kurstin
| title6 = [[Back to the Start (bài hát)|Back to the Start]]
| length6 = 4:14
| writer6 = Allen, Kurstin
Dòng 118:
| length7 = 3:27
| writer7 = Allen, Kurstin
| title8 = [[Fuck You (bài hát của Lily Allen)|Fuck You]]
| length8 = 3:43
| writer8 = Allen, Kurstin
| title9 = [[Who'd Have Known]]
| length9 = 3:50
| writer9 = Allen, [[Gary Barlow]], [[Howard Donald]], Greg Kurstin, [[Jason Orange]], [[Mark Owen]], Steve Robson
| title10 = Chinese
| length10 = 3:28
Dòng 293:
|align="center"|8
|-
|European Albums Chart<ref name=billboardalbumdisplay>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/album/lily-allen/it-s-not-me-it-s-you/1208886|title=It's Not Me, It's You - Lily Allen|work=[[Billboard.com]]|accessdate=2010-10-24}}</ref>
|align="center"|20
|-
Dòng 356:
|-
|Canada
|align="center"|Vàng<ref>{{chú thích web|url = http://www.cria.ca/goldplat.php|title=Gold & Platinum Certification: February 2010|publisher=Canadian Recording Industry Association|archiveurl=http://www.webcitation.org/5oM3gGm5w|archivedate=2010-03-19|accessdate=2010-07-01}}</ref>
|align="center"|40.000+
|-
|Châu Âu
|align="center"|Bạch kim<ref>{{chú thích web|url=http://www.ifpi.org/content/section_news/plat2009.html |title= Certifications Europe 2009; It's Not Me, It's You Platinum|publisher=[[International Federation of the Phonographic Industry]]|accessdate=2009-09-01}}</ref>
|align="center"|1.000.000+
|-
Dòng 405:
|align="center"|8
|-
|US ''Billboard'' 200<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/charts-year-end/the-billboard-200?year=2009&begin=141&order=position|title=The Billboard 200|work=[[Billboard.com]]|accessdate=2009-12-29}}</ref>
|align="center"|148
|}