Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mạc Đĩnh Chi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại 1sửa đổi của 115.77.189.232 (thảo luận), quay về phiên bản cuối của ThiênĐế98. (TW)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Mạc Đĩnh Chi là người làng [[Lũng Động]], huyện [[Chí Linh]], [[Hải Dương|Hải Đông]] (tỉnh Hải Dương hiện nay), tổ tiên là [[Mạc Hiển Tích]] đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua [[Lý Nhân Tông]]. <ref name="Hóa Á Châu 1991">Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Nhà xuất bản: Văn Sử 1991, Chương Anh Tông Hoàng Đế</ref>. Ông thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí.<ref name="Tập 1 2005"/>
 
Chiêu Quốc Vương [[Trần Ích Tắc]] mở học đường, tập hợp văn sĩ bốn phương, chu cấp cho ăn mặc, đào tạo nhiều nhân tài, trong đó có Mạc Đĩnh Chi. Sách [[Đại Việt sử ký toàn thư]] chép rằng: ''Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề ghì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v... gồm 20 người, đều được dùng cho đời.''<ref name="ReferenceA">Đại Việt sử ký toàn thư, Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên..., Dịch giả Viện sử học Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993</ref>
 
==Sự nghiệp==
Dòng 36:
=== Tại cửa ải ===
Thử thách văn chương đầu tiên là do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy (nay là [[ải Nam Quan]]) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối:
: ''Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan''
 
: Nghĩa là: Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua cửa quan.
 
Ông đã đáp lại:
: ''Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối
 
: Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.
 
Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng.
 
Hàng 46 ⟶ 50:
Khi đến Yên Kinh, thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh khi. Trong buổi tiếp kiến đầu tiên người [[triều Nguyên]] đã ra câu đối:
: ''Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố''
: Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày mặt trời thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ.
 
Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:
: ''Nguyệt cung tinh đan, hoàng hôn xạ lạc kim ô''
:Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, khi chiều tớità mặt trăng bắn rơi mặt trời. Hàm ý là nước nhỏ cũng có thể chống lại nước lớn trong hoàn cảnh thích hợp.
 
=== Bức tranh chim sẻ ở phủ Tể tướng ===
Hàng 72 ⟶ 77:
: ''Dao trì nhất phiến nguyệt.''
: ''Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết !''
:Dịch nghĩa:
:''Một đám mây trên trời xanh
:''Một bông tuyết trong lò lửa đỏ
:''Một nhành hoa trong vườn thượng uyển
:''Một vầng trăng Dao Trì
:''Ôi ! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết !
Ý rằng: trên trời có một đám mây, trong lò lửa có một bông tuyết, trong vườn hoa có một nhành hoa, trong hồ nước có một mặt trăng! than ôi! mây tan hết, tuyên tan rồi, hoa tàn héo, trăng không tròn!<ref>Nguyễn Hữu Tiến. Nam Phong tạp chí, số 92 tháng 02 năm 1925.</ref>
 
Hàng 91 ⟶ 96:
==Gia đình==
*Tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông sinh ra Mạc Hiển Đức, Hiển Đức sinh Hiển Tuấn, Hiển Tuấn sinh Đĩnh Kỳ. Mạc Đĩnh Kỳ sinh Mạc Đĩnh Chi <ref name="Hóa Á Châu 1991"/>.
*Đĩnh Chi sinh ra Cao, Cao sinh ra Thuý, Thuý sinh ra Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Bình, Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch, Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là [[Mạc Đăng Dung|Đăng Dung]], con thứ là Đốc Tín, con út là Quyết. Đăng Dung có sức khoẻ, vì đỗ võ cử, được sung vào quân túc vệ, đến đây phong cho chức này.<ref name="ReferenceA"/>
*Năm 1406, nhà Minh xâm lược [[Nhà Hồ|Đại Ngu]], Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho quan chức. Sau Thúy làm đến tham chính; Địch làm đến chỉ huy sứ; Viễn làm đến diêm vận sứ; Huân làm đến bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là cháu Mạc Đĩnh Chi).<ref name="ReferenceA"/>
 
=== Hậu duệ ở Triều Tiên ===