Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 19:
{{chính trị Việt Nam}}
Tại Việt Nam, '''Tòa án nhân dân tối cao''' là cơ quan xét xử cao nhất của nước [[Việt Nam|Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam]]. Theo ''Luật tổ chức [[Tòa án nhân dân (Việt Nam)|Toà án nhân dân]]'' năm 2002, Toà án nhân dân tối cao gồm [[Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Chánh án]], các Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký toà án.
 
== Lịch sử ==
Ngày 13 tháng 9 năm 1945, [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] ra Sắc lệnh thiết lập các '''Toà án quân sự'''. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm:
*Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình;
*Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi;
*Nam bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho.
 
Uỷ ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ, trong địa hạt hai bộ ấy, có thể đề đạt lên Chính phủ xin mở thêm Toà án quân sự ở những nơi trọng yếu khác. Về thẩm quyền xét xử, Toà án quân sự xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2).
 
Trong cuộc cải cách Tư pháp năm 1950 Chính phủ ra ''Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950'' quy định:
 
*''Về tổ chức'': - Bộ máy tư pháp được dân chủ hoá các Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp nay gọi là Tòa án nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh. Hội đồng phúc án nay là Tòa Phúc thẩm phụ thẩm nhân dân nay gọi là hội thẩm nhân dân.
 
- Thành phần nhân dân được đa số trong việc xét xử: Để xét xử việc hình và hộ, Tòa án nhân dân huyện và tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Tòa Phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết.
 
- Thành lập hội đồng hoá giải tại mỗi huyện nhằm mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hoá giải tất cả các việc hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có Chánh án Tòa án tỉnh mới có thẩm quyền. Biên bản hòa giải thành có chấp hành lực. Đây là một điểm tiến bộ so với thế hệ cũ. Khi các đương sự đã thoả thuận trước hội đồng hoá giải thì việc hòa giải được đem thi hành ngay.
 
- Áo chùng đen của Thẩm phán và luật sư nay bỏ đi.
 
* ''Về thẩm quyền'':
 
- Tăng thẩm quyền cho ban tư pháp xã về việc phạt vi cảnh để làm cho một số việc ít quan trọng về mặt trị an sẽ được giải quyết mau chóng ngay tại xã.
 
- Giao cho các Tòa án nhân dân huyện quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, dù việc xử kiện không thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân huyện để tránh cho đương sự khỏi phải tốn phí đi lên Tòa án tỉnh và những việc cấp bách có thể được giải quyết mau chóng hơn.
 
* ''Về tố tụng'': Thủ tục tố tụng được hợp lý và giản dị hơn.
 
- Trái với quan niệm cũ cho rằng việc hộ thường chỉ có lợi hoặc có hại riêng cho tư nhân mà xã hội không cần can thiệp đến, thì nay công tố viên có quyền kháng cáo các án hộ nếu xét ra cần thiết.
 
- Theo Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946, biện lý bắt buộc phải đưa sang phòng dự thẩm để thẩm cứu một số việc hình dù rằng xét ra không cần thiết. Nay biện lý chỉ giao sang phòng dự thẩm khi xét thật cần thiết mà thôi.
 
- Trước đây mỗi khi thủ tục tố tụng không được theo đúng thì bị tiêu hủy dù không có hại cho việc thẩm cứu, hoặc cho quyền lợi của đương sự. Nay coi điều đó là quá câu nệ về hình thức không còn hợp thời nữa.
 
- Từ nay người bị thiệt hại về một vụ phạm pháp có thể xin kháng cáo không những để tăng tiền bồi thường mà còn để tăng hình phạt nữa.
 
- Việc chấp hành án nay giao cho Thẩm phán huyện phụ trách.
 
== Nhiệm vụ và quyền hạn ==
Nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân tối cao được quy định trong Điều 20, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 như sau:
Hàng 95 ⟶ 58:
== Đặc điểm và hiện tình==
Theo ông Nguyễn Văn Hiện, cựu Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao: "Để đảm bảo chất lượng công tác xét xử, cần phải có 5 điều kiện: người tiến hành tố tụng tốt; hệ thống pháp luật tốt; người tham gia tố tụng tốt; hệ thống các cơ quan hỗ trợ tư pháp tốt; và thực hiện tốt nguyên tắc độc lập tư pháp, tuân theo pháp luật".
 
== Lịch sử ==
Ngày 13 tháng 9 năm 1945, [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] ra Sắc lệnh thiết lập các '''Toà án quân sự'''. Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm:
*Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình;
*Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi;
*Nam bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho.
 
Uỷ ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ, trong địa hạt hai bộ ấy, có thể đề đạt lên Chính phủ xin mở thêm Toà án quân sự ở những nơi trọng yếu khác. Về thẩm quyền xét xử, Toà án quân sự xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2).
 
Trong cuộc cải cách Tư pháp năm 1950 Chính phủ ra ''Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950'' quy định:
 
*''Về tổ chức'': - Bộ máy tư pháp được dân chủ hoá các Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp nay gọi là Tòa án nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh. Hội đồng phúc án nay là Tòa Phúc thẩm phụ thẩm nhân dân nay gọi là hội thẩm nhân dân.
 
- Thành phần nhân dân được đa số trong việc xét xử: Để xét xử việc hình và hộ, Tòa án nhân dân huyện và tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Tòa Phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết.
 
- Thành lập hội đồng hoá giải tại mỗi huyện nhằm mục đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hoá giải tất cả các việc hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có Chánh án Tòa án tỉnh mới có thẩm quyền. Biên bản hòa giải thành có chấp hành lực. Đây là một điểm tiến bộ so với thế hệ cũ. Khi các đương sự đã thoả thuận trước hội đồng hoá giải thì việc hòa giải được đem thi hành ngay.
 
- Áo chùng đen của Thẩm phán và luật sư nay bỏ đi.
 
* ''Về thẩm quyền'':
 
- Tăng thẩm quyền cho ban tư pháp xã về việc phạt vi cảnh để làm cho một số việc ít quan trọng về mặt trị an sẽ được giải quyết mau chóng ngay tại xã.
 
- Giao cho các Tòa án nhân dân huyện quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, dù việc xử kiện không thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân huyện để tránh cho đương sự khỏi phải tốn phí đi lên Tòa án tỉnh và những việc cấp bách có thể được giải quyết mau chóng hơn.
 
* ''Về tố tụng'': Thủ tục tố tụng được hợp lý và giản dị hơn.
 
- Trái với quan niệm cũ cho rằng việc hộ thường chỉ có lợi hoặc có hại riêng cho tư nhân mà xã hội không cần can thiệp đến, thì nay công tố viên có quyền kháng cáo các án hộ nếu xét ra cần thiết.
 
- Theo Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm 1946, biện lý bắt buộc phải đưa sang phòng dự thẩm để thẩm cứu một số việc hình dù rằng xét ra không cần thiết. Nay biện lý chỉ giao sang phòng dự thẩm khi xét thật cần thiết mà thôi.
 
- Trước đây mỗi khi thủ tục tố tụng không được theo đúng thì bị tiêu hủy dù không có hại cho việc thẩm cứu, hoặc cho quyền lợi của đương sự. Nay coi điều đó là quá câu nệ về hình thức không còn hợp thời nữa.
 
- Từ nay người bị thiệt hại về một vụ phạm pháp có thể xin kháng cáo không những để tăng tiền bồi thường mà còn để tăng hình phạt nữa.
 
- Việc chấp hành án nay giao cho Thẩm phán huyện phụ trách.
 
==Các chánh án qua các thời kỳ==