Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lịch sử Đế quốc La Mã”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 181:
Dưới triều Hoàng đế [[Flavius Claudius Julianus]], triều đình [[La Mã]] cổ súy trở lại cho các [[tôn giáo đa thần]] và và tiến hành đàn áp [[Ki-tô giáo]] (mặc dù bản thân ông không phải là một tín đồ ngoại giáo). Những chính sách này làm nhận định về ông trong các tài liệu thời đó rất mâu thuẫn: những người ngoại giáo thì xem ông như một vị anh hùng, còn các Ki-tô hữu thì lại cho ông là một tên vua xấu xa. Thế nhưng dù sao đi nữa thì sự phục hưng ngoại giáo này cũng kéo dài chẳng được bao lâu. Nó đã chết yểu khi ông qua đời trên chiến trường trong các cuộc chiến tranh chống lại Đế quốc Sassanid (năm 363).
Là một thiên tài quân sự vĩ đại nhất thời đại đó, Hoàng đế [[Flavius Claudius Julianus]] đã xuất quân đại phá quân Sassanid do Hoàng đế [[Shapur II]] thống lĩnh trong [[Trận Ctesiphon (363)|trận đánh]] gần kinh đô [[Ctesiphon]] của Đế quốc Sassanid, làm vua Shapur II cùng đám tùy tùng phải bỏ chạy.<ref name="redout">Joseph J. Reed, ''Outlines of universal history: in three parts; with a copious index to each part, showing the correct mode of pronouncing every name mentioned ...'', trang 158</ref> Không những thế, ông cũng là một nhà bảo trợ của [[triết học]] và [[khoa học]], nên ông được gọi là vị ''[[vua-triết gia]]''.<ref>Russell M. Lawson, ''Science in the ancient world: an encyclopedia'', trang 127</ref> Khi Hoàng đế Julianus đột ngột qua đời, Hoàng đế Shapur II cũng giành lại thế thượng phong:<ref name="redout"/> Vì Hoàng đế Julianus không có con và không chỉ định người thừa kế
==La Mã từ năm 364 đến 395==
|