Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Khâm Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 130:
Tháng 3 ÂL, người Kim sau khi lập Trương Bang Xương thì chuẩn bị đưa tông thất triều Tống lên bắc. Đầu tháng 4, [[Oát Li Bất]] chia 2 vua Huy, Khâm làm hai đoàn áp giải về Kim. [[Trương Bang Xương]] mặc áo bào xám, đội mũ đỏ đến đưa miễn. [[Oát Li Bất]] đưa thượng hoàng, thái hậu và thân vương cùng mẹ đẻ của Khang vương Cấu là [[Vi Hiền phi (Tống Huy Tông)|Vi Hiền phi]] khởi hành từ Họt châu. [[Niêm Một Hát]] đưa Khâm Tông, Chu hậu, thái tử cùng [[Hà Trạc]], [[Tôn Phó]], [[Trương Thúc Dạ]], [[Trần Quá Đình]], [[Tần Cối]] đi từ Trịnh châu. Tháng 7 năm đó, hai vua Tống bị giam giữ ở Yên Kinh. Ngày [[21 tháng 8]] năm [[1128]], họ bị giải tới kinh đô nước Kim và bị ép mặc đồ vải thô đến lạy ở miếu [[Kim Thái Tổ]] A Cốt Đả rồi lên điện Càn Nguyên yết kiến vua Kim. [[Kim Thái Tông]] hạ chiếu, phong Triệu Cát làm Hôn Đức công, Triệu Hoàn làm Trọng Hôn hầu. Tháng 10 năm đó, 2 vua Tống bị dời tới Hàn châu<ref>Thành Bắc Thiên Kiểm, huyện Lê Thụ, tỉnh [[Cát Lâm]] hiện nay</ref>. Tháng 7 ÂL năm [[1130]], bị dời sang thành Ngũ Quốc<ref>Huyện [[Y Lan]], tỉnh [[Hắc Long Giang]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref>.
 
Trong khi đó tại miền nam, em ông là Khang vương Triệu Cấu dưới sự ủng hộ của các đại thần đã lên ngôi hoàng đế vào ngày [[12 tháng 5]], tức là [[Tống Cao Tông|Cao Tông của Nam Tống]], diêu tôn Khâm Tông là Hiếu Từ Uyên Thánh hoàng đế<ref>''[[Tống sử]]'', [[:zh:s:宋史/卷024|quyển 24]]</ref>. Ngày [[4 tháng 6]] năm [[1135]], Hôn Đức công bệnh mất ở thành Ngũ Quốc<ref>''[[Tống sử]]'', [[:zh:s:宋史/卷022|quyển 22]]</ref>. Tháng 2 ÂL năm [[1141]], khi Tống - Kim xúc tiến nghị hòa, [[Kim Hi Tông]] hạ lệnh thăng Hôn Đức công làm [[Thiên thủy quận vương|Thiên Thủy quận vương]], Trọng Hôn hầu làm Thiên Thủy quận công<ref>''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷124|quyển 124]]</ref>. Mùa xuân năm [[1142]], hai nước ký Thiệu Hưng hòa nghị, lấy Hoài Hà làm ranh giới, giang sơn triều Tống đến đó chỉ còn 15 lộ. Ngày [[1 tháng 5]] năm [[1142]], Kim cho mẹ Cao Tông là Vi thái hậu đem thi hài Huy Tông về nước an táng. Khi thái hậu khởi hành, Thiên Thủy quận công chạy theo xe, xin về nói hộ với Cao Tông để cho mình về, hứa chỉ cần ngôi Thái Ất cung sứ, không đòi hỏi gì hơn, thái hậu đồng ý<ref>''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷125|quyển 125]]</ref>. Tuy nhiên Cao Tông nghe việc này, tỏ ra không vui, và đến cuối đời Khâm Tông cũng không được về nước.
 
Theo quyển Đại Tống Tuyên Hòa di sự, tháng 6 ÂL năm [[1156]], vua Kim lúc đó là Hải Lăng vương [[Hoàn Nhan Lượng]] ép ông cùng vua Liêu cũ là [[Da Luật Diên Hi]] phải cưỡi ngựa. [[Tống Khâm Tông|Thiên Thủy quận công]] thân thể vốn suy nhược, vừa lên ngựa thì không trụ nổi, bị ngã ngựa mà chết; còn Da Luật Diên Hi quen cưỡi ngựa, đến đó nhân cơ hội tìm đường bỏ trốn, liền bị kị binh Kim bắn chết. Năm [[1161]] tin tức này mới được báo cho triều đình [[Nam Tống]]<ref>''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷130|quyển 130]]</ref><ref>''[[Kim sử]]'', liệt truyện quyển 61: Hải Lăng sử Vương Toàn kích nộ Tống chủ, tương dĩ vi nam phạt chi danh dã. vị Cảnh San viết:"hồi  nhật, dĩ Toàn sở ngôn tấu văn". Toàn chí Tống, nhất như Hải Lăng chi ngôn để trách Tống chủ. Tống chủ vị Toàn viết:Văn công bắc phương danh gia, hà nãi như thị?" Toàn phục viết:"triệu hoàn kim dĩ tử hĩ". Tống chủ cự khởi phát ai nhi bãi</ref>. Triều đình Nam Tống làm lễ tang. Em cùng cha khác mẹ của ông là [[Tống Cao Tông]] truy miếu hiệu cho ông là Khâm Tông, [[thụy hiệu]] là ''Cung Văn Thuận Đức Nhân Hiếu hoàng đế'' (恭文順德仁孝皇帝).