Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Nhật Duật”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: ; → ;, == Tài liệu tham khảo == → ==Tham khảo==, có 3 người → có ba người using AWB
Dòng 30:
Có nhiều truyền thuyết kể về sự ra đời kì lạ của Trần Nhật Duật, chẳng hạn truyền thuyết cũng ghi tại thần phả làng Miễu: ''..."Lễ cầu tự kéo dài 21 ngày, một đêm Vũ phi nằm mộng thấy ngôi sao lớn từ trên không rơi xuống giường nằm của mình, từ đấy bà có mang, đến giờ Ngọ ngày mồng [[10 tháng 4]] năm Ất Mão ([[1255]]) sinh một hoàng tử, dung mạo khác thường, được đặt tên là Nhật Duật"''.
 
Theo sử sách, từ nhỏ ông đã nổi tiếng là hiếu học và sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người. Truyền rằng khi mới sinh, trên tay Trần Nhật Duật có bốn chữ ''"Chiêu Văn đồng tử"'' (昭文童子). Sau Trần Thái Tông lấy đó mà đặt phong hiệu cho ông là ['''Chiêu Văn'''; 昭文 có nghĩa là đón, gọi cái đẹp].{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=172}}
 
Theo vai vế, ông là em cùng cha khác mẹ của [[Trần Thánh Tông]] và Chiêu Minh Đại vương [[Trần Quang Khải]]. Ông cũng là anh em cùng mẹ với Chiêu Quốc vương [[Trần Ích Tắc]] và Chiêu Đạo vương [[Trần Quang Xưởng]].
Dòng 49:
 
== Đánh quân Nguyên-Mông (1285, 1287-88) ==
Đầu năm [[1284]], vua [[nhà Nguyên|Nguyên]] là [[Hốt Tất Liệt]] sai Trấn Nam vương [[Thoát Hoan]] [[Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2|chia quân làm ba đạo xâm lược Đại Việt]]. Chiêu Văn vương lúc đó đang trấn thủ lộ [[Tuyên Quang]]. Vì Nhật Duật hay giao du với người Hán, nên Chiêu Quốc vương [[Trần Ích Tắc]] tâu với vua rằng: ''"Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên đó gọi giặc sang rồi!"''. Khi cánh quân Nguyên từ [[Vân Nam]] sang chiếm được trại Thu Vật (thuộc huyện [[Yên Bình]], tỉnh [[Yên Bái]] ngày nay), Nhật Duật đã thực hiện cuộc triệt binh chiến lược theo con đường từ Yên Bình về [[Bạch Hạc]] ([[Phú Thọ]]). Thoạt tiên ông đi thuyền xuôi theo [[sông Chảy]], nhưng khi thấy truy binh của Nguyên-Mông chỉ đuổi theo chậm rãi, ông nói với các thuộc cấp: ''"Truy kích thì phải nhanh, nay chúng lại đi thong thả, sợ có quân phía trước đón chặn"''. Sau đó, Chiêu Văn vương sai người đi do thám, quả nhiên thấy người Nguyên đã cho quân chặn ngang ở Hạ Lưu. Nhật Duật mới đưa quân lên bộ và rút lui an toàn khỏi Yên Bái.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=241-242.}}{{sfn|Phan Huy Chú|2007a|p=370}} Sau đó, ông được điều vào [[Nghệ An]] ngăn cánh quân Nguyên của [[Toa Đô]]. Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1285, Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra vùng Bố Chính (Quảng Bình ngày nay) rồi tiến ra Nghệ An. Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản tung quân chống đánh, nhưng thua trận. Toa Đô lại đánh ra [[Thanh Hóa]]. Tướng giữ Thanh Hóa là Chương Hiến hầu Trần Kiện mang 1 vạn quân ra đón hàng quân Nguyên.{{sfn|Lê Tắc|1961|pp=37-38.}}<ref name="chientranhvequoc1285">{{harvnb|Lê Mạnh Thát|1999|loc=chương III: [http://www.bodephatquoc.com/vua-tran-nhan-tong-va-cuoc-chien-ve-quoc-1285.html "Vua Trần Nhân Tông Và Cuộc Chiến tranh Vệ Quốc Năm 1285"]}}</ref>
 
Sau một thời gian tránh thế mạnh của địch, dùng kế vườn không nhà trống ở kinh thành Thăng Long và các vùng lân cận khiến quân Nguyên bị thiếu lương thảo, bộ chỉ huy Đại Việt đứng đầu là thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông và Quốc công Tiết chế Hưng Đạo vương [[Trần Quốc Tuấn]] bắt đầu phản công.<ref name="chientranhvequoc1285"/> Cuối [[tháng 4]] năm [[1285]], Chiêu Văn vương bàn với Hưng Đạo vương đón đánh quân Nguyên ở cửa Hàm Tử. Để phá vỡ nhuệ khí quân Nguyên, Trần Nhật Duật tuyển nhiều người Trung Quốc của [[nhà Tống]] cũ vào đạo quân của ông. Ông còn cho người Tống là Triệu Trung làm gia tướng. Số quân này mặc sắc phục nước, cầm cung tên đi đầu trận tuyến, chiến đấu rất hăng. Thượng hoàng Thánh Tông sợ quân sĩ tưởng quân Tống của Nhật Duật là lính người Hoa của quân Nguyên, nên sai người đi dặn rằng: ''"Đó là quân Thát của Chiêu Văn đấy, phải nhận kỹ chúng"''. Quân Nguyên cho là Đại Việt được người Tống giúp, nên rất hoảng loạn, phải tháo chạy tan tác. Trong sách [[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]], sử gia [[Ngô Sĩ Liên]] nhận định: ''"Công đánh giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả"''.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=193-194.}}{{sfn|Phan Huy Chú|2007a|p=370}}
 
Trong Bài ký chuông quán Thông Thánh ở Bạch Hạc (''Bạch Hạc Thông Thánh quán chung ký''), đạo sĩ người Tống là Hứa Tông Đạo, người đã di cư sang Đại Việt năm 1276 và là môn khách của Trần Nhật Duật, có mô tả chiến công của Trần Nhật Duật trong cuộc chiến năm 1285:<ref>[https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BA%A1ch_H%E1%BA%A1c_Th%C3%B4ng_Th%C3%A1nh_qu%C3%A1n_chung_k%C3%BD Bạch Hạc Thông Thánh quán chung ký - Wikisource]</ref>
:''"Cuối đông năm Giáp Thân, giặc Bắc đến xâm lược. Lúc ấy, Khai Quốc vương trấn thủ các lộ Tuyên Quang ; ngày thượng nguyên năm [[1285|Ất Dậu]], cùng Hứa Tông Đạo cắt tóc thề trước thần linh sông Bạch Hạc sẽ đem tận trung báo ơn chúa thượng. Rồi đốc suất tả hữu, một mình xông lên trước. Vừa qua vùng Man Lão, quân Thát đã ở sau, trong vòng tám khắc, hai bên không đụng. Đến thẳng trước ngự, hầu bên hữu giá, tập hợp quân sĩ, chém đầu Toa Đô. Trung tuần tháng trọng hạ, quân Thát thua chạy, đều nhờ vào phúc ấm của thần vương vậy."''
 
Các bộ chính sử của Việt Nam như [[Đại Việt Sử ký Toàn thư]], [[Việt sử tiêu án]], [[Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục]],... không chép gì về vai trò của Trần Nhật Duật trong cuộc [[Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 3|kháng chiến chống Nguyên]] năm 1287-1288. Các bộ sử Trung Quốc như [[Nguyên sử]] và [[An Nam chí lược]] cũng chỉ cung cấp thông tin sơ lược rằng ông là người chỉ huy 4 vạn quân Đại Việt ở cửa Mộc Ngột ([[Việt Trì]]). Tháng 11 âm lịch năm 1287, cánh quân Nguyên của Hữu thừa Aruq (Ái Lỗ), gồm 6 nghìn người, từ Trung Khánh (Côn Minh, Vân Nam) qua La La, Bạch Y tiến vào Đại Việt. Trần Nhật Duật xua quân đánh lại Aruq. Hai bên giao chiến tất cả 18 trận trong suốt 3 tháng. Quân Nguyên thắng lợi, lấy được 87 thuyền chiến và giết hại hai tướng Đại Việt là Lê Thạch, Hà Anh.{{sfn|Lê Tắc|1961|p=39}}<ref name="chientranhvequoc1288"/> Tuy nhiên, sử gia thế kỷ 21 [[Lê Mạnh Thát]] kiến giải rằng:<ref name="chientranhvequoc1288">{{harvnb|Lê Mạnh Thát|1999|loc=chương IV: [http://thuvienhoasen.org/p59a12912/phan-i-nghien-cuu-ve-tran-nhan-tong-chuong-iv-vua-tran-nhan-tong-va-cuoc-chien-tranh-ve-quoc-nam-1288 "Vua Trần Nhân Tông Và Cuộc Chiến tranh Vệ Quốc Năm 1288"]}}</ref>
Dòng 64:
Tháng 1 âm lịch năm [[1302]], vua Anh Tông phong ông làm ''Thái úy Quốc công'', cùng Thống chính thái sư Trần Đức Việp và Nhập nội bình chương [[Trần Quốc Chẩn]] trông coi việc nước.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=216}} Anh Tông rất tin tưởng ông, thường hỏi han ông về việc chính sự. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư thuật lại:{{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=241-243}}
:''"Anh Tông muốn tôn Tuyên Từ hoàng thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, nhưng chưa biết gia tôn thế nào. Khâm Từ hoàng thái hậu đem việc ấy hỏi ông, ông trả lời là tôn làm thái hoàng thái hậu.''
:''Anh Tông có hai chiếc mũ võ, là mũ đội khi duyệt và giảng võ mà chưa có tên gọi. Khi đi đánh Chiêm Thành, định đội đi, sai Nhật Duật đặt tên, Nhật Duật liền đặt tên một chiếc là Vũ Uy, một chiếc là Vũ Đức. Đến các tên "Toát Trai", "Tư thiện đường" của Đông cung (nhà học của hoàng thái tử gọi là Tư thiện đường, nhà học của Đông thái tử gọi là Toát trai) cũng đều là do ông đặt tên cả."''
 
Vua Anh Tông có 3ba người con đầu lòng đều chết yểu. Ngày 21 tháng 8 âm lịch năm 1300, hoàng tử thứ 4 là Trần Mạnh ra đời. Do các hoàng tử trước đó đều khó nuôi, Anh Tông đã nhờ [[Thụy Bảo công chúa]] (瑞寶公主; em gái của [[Trần Thánh Tông]]) nuôi hộ Trần Mạnh. Thụy Bảo cho rằng mình đang gặp vận rủi, nên đã trao hoàng tử cho anh là Trần Nhật Duật nuôi. Theo sử cũ, Nhật Duật đã chăm nuôi hoàng tử Mạnh rất chu đáo. Ông còn đặt tên cho hoàng tử là Thánh Sinh (聖生) để giống với con trai mình là ''Thánh An'' (聖安), và con gái là ''Thánh Nô'' (聖奴).{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=215}} Năm 1305, Trần Mạnh được phong làm [[hoàng thái tử]]. Khi Trần Anh Tông đem quân chinh phạt [[Chiêm Thành]] vào tháng 11 âm lịch năm 1311 &ndash; tháng 5 âm lịch năm 1312, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã cùng với thái tử Mạnh và Nghi Võ hầu Quốc Tú (tướng chỉ huy quân tả hữu Thánh Dực) ở lại giám quốc. Trận này quân Đại Việt thắng lớn, bắt được vua Chiêm là [[Chế Chí]] về kinh sư. Vua Anh Tông không ban thưởng các tướng thắng trận vì cho là công của những người giám quốc như Trần Nhật Duật cũng rất lớn, không thua các tướng trận.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=224}}
 
Năm 1314, Trần Anh Tông nhường ngôi cho thái tử Mạnh, tức vua [[Trần Minh Tông]]. Tháng 4 âm lịch năm 1324, Minh Tông phong Trần Nhật Duật làm ''Tá thánh Thái sư''.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=233}} Đến ngày 7 tháng 2 âm lịch năm [[1329]], Minh Tông truyền ngôi cho thái tử Vượng, tức vua [[Trần Hiến Tông]]. Hiến Tông thăng Nhật Duật lên tước ''Chiêu Văn Đại vương''.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|p=237}}
 
Ông là bậc thân vương tôn quý, làm quan qua 4 đời vua, ba lần coi giữ trấn lớn. Dù đã có nhiều công lao, lại là tôn thất hoàng gia nhưng Trần Nhật Duật làm việc rất giỏi và ngay thẳng. Vợ ông là [[Trinh Túc phu nhân]] có lần nhờ ông một việc riêng. Ông gật đầu, nhưng đến khi ra phủ, người giúp việc đem việc ấy ra trình, ông không cho. Do ông có tài chính trị, cho nên dù nhà ông ngày nào cũng tổ chức vui chơi, hát xướng, ông vẫn không bị ai coi là phóng dật. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: ''"So với [[Quách Tử Nghi]] tột cùng xa xỉ mà không ai chê, ông cũng gần được như thế"''. {{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=241-243.}}{{sfn|Phan Huy Chú|2007a|p=370}}
 
Trần Nhật Duật còn được mô tả là người nhã nhặn, độ lượng, khoan dung, mừng giận không lộ ra sắc mặt. Trong nhà không chứa roi vọt để đánh gia nô, nếu có đánh thì trước khi đánh bao giờ ông cũng vạch tội rõ ràng. Một lần có kẻ kiện gia tỳ của ông với Quốc phụ thượng tể [[Trần Quốc Chẩn]]. Quốc Chẩn sai người đến bắt. Người gia tỳ chạy vào trong phủ. Người đi bắt đuổi đến giữa nhà, bắt trói ầm ỹ. Phu nhân khóc, nói: ''"Ông là tể tướng mà Bình chương cũng là tể tướng, chỉ vì ân chúa nhân từ nhu nhược nên người ta mới coi khinh đến nước này"''. Ông vẫn tự nhiên, chẳng nói gì, sai người bảo gia tỳ rằng: ''"Ngươi cứ ra, đâu đâu cũng đều có phép nước"''. Trong một lần khác, một gia nô của ông đang giữ thuyền thì bị gia đồng của Quốc Chẩn đánh. Khi có người thuật lại việc này với ông, ông chỉ hỏi: ''"Có chết không?"'', và sau khi biết là người gia nô chỉ bị thương, ông trả lời: ''"Không chết thì thôi, mách làm gì!"''.{{sfn|Nhiều tác giả|1993|pp=241-243.}}
 
Năm [[1330]], đời Trần Hiến Tông, Chiêu Văn Đại vương Nhật Duật qua đời, hưởng thọ 75 tuổi. Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với giai đoạn vinh quang nhất của nhà Trần. Tài năng, đức độ, sự nghiêm minh ngay thẳng của ông cũng như các tướng văn, võ trong thân tộc nhà Trần cùng thế hệ với ông ([[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]], [[Trần Quang Khải]]...) góp phần không nhỏ vào sự tồn tại và hưng thịnh của nước [[Đại Việt]] thời [[nhà Trần]].
Dòng 100:
{{tham khảo}}
 
== Tài liệu thamTham khảo ==
* {{Chú thích sách|tác giả=Nhiều tác giả|lk tác giả =|title=[[Đại Việt sử ký toàn thư]]|volume=Nội các quan bản|năm gốc = | year=1993|language=tiếng Việt |publisher=Nhà xuất bản Khoa học Xã hội|location=Hà Nội|ref=harv}}
* {{Chú thích sách|tác giả=Ngô Thì Sĩ|lk tác giả =Ngô Thì Sĩ| đồng tác giả =Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu (phiên dịch) | title=Việt sử tiêu án|edition=|năm gốc = | year=1991|language=tiếng Việt |publisher=Nhà xuất bản Văn Sử|location=|ref=harv}}
Dòng 118:
 
{{Các chủ đề|Lịch sử|Quân sự|Việt Nam}}
 
[[Thể loại:Người Hà Nội]]
[[Thể loại:Tướng nhà Trần]]