Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thượng tọa bộ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →đầu |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 2:
{{đổi hướng đến đây|Nam Tông|Nam Tông (định hướng)}}
'''Thượng tọa bộ Phật giáo''' hay '''Phật giáo Theravada''', '''Phật giáo Nam truyền''', '''Phật giáo Nam tông''' là một nhánh của [[Phật giáo Tiểu thừa]], xuất hiện đầu tiên ở [[Sri Lanka]], rồi sau đó được truyền rộng rãi ra nhiều xứ ở [[Đông Nam Á]]. Ngày nay, Thượng tọa bộ Phật giáo vẫn rất phổ biến ở Sri Lanka và Đông Nam Á, đồng thời cũng có nhiều tín đồ phương Tây. Thượng tọa bộ ở Việt Nam còn được gọi là Phật giáo Nguyên thủy dù trong thực tế Thượng tọa bộ chỉ hình thành từ khi Phật giáo phân chia thành các bộ, phái từ Hội nghị kết tập lần thứ hai sau khi Phật qua đời khá lâu. [[Phật giáo Nguyên thủy]] đúng ra là tư tưởng Phật giáo từ khi được Phật giảng đến trước khi phân chia bộ, phái.
Đó là phái tương đối bảo thủ, và theo như tiến sĩ [[Rupert Gethin]], giáo phái này gần với Phật giáo ban đầu hơn là các giáo phái truyền thống khác hiện có nay.<ref>Gethin, Rupert. ''Những nền tảng của Phật giáo'', tr.1. Oxford University Press, 1998.</ref> Thượng tọa bộ thừa nhận rằng Thích Ca là một nhân vật lịch sử, một con người và cũng có những hạn chế nhất định của con người như đau lưng, khó chịu với sự ồn ào,...<ref>Minh Chi, "Bàn về các chủ thuyết của các bộ phái", ''Phật học cơ bản'' - Tập II.</ref>▼
▲Sau [[Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba]], giáo nghĩa của phái này được [[Ma-hi-đà]] truyền tới [[Sri Lanka|Tích Lan]] năm [[250 TCN|250 trước Công nguyên]] và được các cao tăng tại [[Đại tự]] (pi. ''mahāvihāra'') gìn giữ. Về giới luật cũng có một số bất đồng trong nội bộ phái Thượng tọa bộ. Ngày nay Thượng tọa bộ được lưu hành tại các nước [[Ấn Độ]], [[Sri Lanka]], [[Myanma|Miến Điện]], [[Thái Lan]], [[Campuchia]] và [[Lào]], nên còn được gọi là '''Nam tông Phật pháp''' hay '''Phật giáo Nam truyền''', '''Phật giáo Nam Tông'''. Một số đại biểu phái [[Đại thừa]] xuất xứ từ [[Trung Quốc]] còn gọi tông phái này là [[Tiểu thừa]].
Phật giáo Thượng tọa bộ được các quốc gia khác nhau và rất nhiều người trên thế giới đi theo, như là:
Hàng 34 ⟶ 30:
[[Tập tin:Monks in Wat Phra Singh - Chiang Mai.jpg|thumb|Tăng sĩ Phật giáo hệ phái Nam Tông]]
Theravadin (
===Truyền đến Sri Lanka===
Hàng 45 ⟶ 41:
Theo như biên niên sử Pali của truyền thống [[người Sinhala]], Phật giáo lần đầu tiên được đưa đến Sri Lanka do vị A-la-hán là [[Ma-hi-đà]] (Mahinda), người được cho là con trai của đức vua [[A-dục vương]] - vua của [[Đế quốc Maurya]], ở thế kỷ thứ III TCN, một phần của ''dhammaduta'' (người truyền giáo) hoạt động vào thời vua A-dục. Ở Sri Lanka, ngài A-la-hán Ma-hi-đà đã thành lập [[Mahavihara|Tu viện Đại Xá]] của Anuradhapura.
===Phân nhánh phái
* [[Thuyết nhất thiết hữu bộ]] (''Saivàstivàdàh''), gọi tắt là Hữu bộ, cũng có tên khác là Thuyết nhân bộ (Hetuvàdàh) do [[Katyayaniputra]] sáng lập. Phái này đề cao luận tạng. Phái này nhanh chóng phát triển, lấn lướt phái gốc và chiếm căn cứ của phái gốc, khiến cho phái gốc phải chuyển căn cứ đến núi Tuyết Sơn và từ đó Thượng tọa bộ gốc được gọi là Tuyết Sơn bộ (''Haimavàtàh'').
* [[Ðộc Tử bộ]] (''Vatsipatriyàli''): tách ra từ Thuyết nhất thiết hữu bộ. Phái này chủ trương tập trung vào ''Pháp uẩn túc luận'' tương truyền do [[Xá-lợi-phất]] biên soạn. Sau do bất đồng quan điểm trong Độc Tử bộ về một bài kệ liên quan đến quả Thánh trong Pháp uẩn túc luận, từ Độc Tử bộ lại hình thành 4 phái kế tiếp.
Hàng 58 ⟶ 54:
* [[Kinh lượng bộ]] (''Sautràntikàh'') hay còn có tên khác là Thuyết chuyển bộ (Samkràntivàdàh), cũng tách ra Thuyết nhất thiết hữu bộ.<ref>Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tập 2.</ref>
Trong hơn nhiều về lịch sử đầu tiên ở Sri Lanka, ba phân khu của
[[Hình:Dambulla 16.jpg|nhỏ|Đức Phật sơn vẽ ở [[chùa hang Dambulla]] tại [[Sri Lanka]]. Chùa hang Phật giáo phức tạp được thành lập như một tu viện Phật giáo ở thế kỷ III TCN. Các hang được chuyển đổi thành chùa chiền trong thế kỷ I TCN.<ref>{{chú thích web|url=http://whc.unesco.org/en/list/561 |title=Golden Temple of Dambulla - UNESCO World Heritage Centre |publisher=Whc.unesco.org |date= |accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2012}}</ref>]]
Hàng 64 ⟶ 60:
Khi nhà sư Trung Quốc là [[Pháp Hiển]] du hành thăm hòn đảo này vào những năm đầu thế kỷ thứ V, ông lưu ý 5000 nhà sư ở Abhayagiri, 3000 nhà sư ở Đại Tự và 2000 nhà sư ở tịnh xá Cetiyapabbata.<ref name="Hirakawa, Akira 2007. p. 121">Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 121</ref>
===Ảnh hưởng của
[[Tập tin:Watpailom 07.jpg|thumb|170px|[[Tăng sĩ]] Phật giáo Nam tông tại Thái Lan đi khất thực]]
Qua nhiều thế kỷ, những
Huyền Trang đã viết về hai sự phân chia của
{{quote|Những người phái Đại Tự (Mahāvihāravāsins) đã từ chối Phật giáo Đại Thừa và thực hành Tiểu Thừa, trong khi những người Abhayagiri đã học tập cả giáo lý của Đại Thừa và Tiểu Thừa cùng việc truyền bá ''[[Tam tạng]]''.}}
Hàng 74 ⟶ 70:
Akira Hirakawa có những ghi chú rằng những chú luận Pāli còn được tồn tại (''[[Atthakatha|{{IAST|Aṭṭhakathā}}]]'') của trường phái Mahāvihāra, khi đã có sự duyệt kiểm chặt chẽ, cũng bao gồm một số các vị trí có sự ăn khớp với giáo lý Đại Thừa.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời Đại Thừa.'' 2007. tr. 257</ref> Kalupahana cũng ghi chú những tương tự về ''[[Thanh tịnh đạo]]'' (Visuddhimagga), là chú dẫn của Theravāda mang tính quan trọng nhất.{{sfn|Kalupahana|1994|p=206-208}}
Trong thế kỷ thứ VIII, được biết rằng cả Đại Thừa và phái
===Bãi bỏ các truyền thống
Một số học giả cho rằng những người lãnh đạo của Sri Lanka đã bảo đảm rằng Theravāda vẫn giữ nguyên truyền thống, và điều này có đặc điểm tương phản với Phật giáo Ấn Độ.<ref>Randall Collins, ''Xã hội học của triết lí: Một lý thuyết toàn cầu về biến đổi trí tuệ.'' Harvard University Press, 2000, trang 187.</ref> Tuy nhiên, trước thế kỷ XII, nhiều nhà lãnh đạo của Sri Lanka đã đem sự ủng hộ và bảo trợ cho những người Thượng tọa bộ ở Abhayagiri, và những du khách ví như Pháp Hiển thấy được phái Thượng tọa bộ Abhayagiri như đã trở thành truyền thống Phật giáo chính Sri Lanka.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 125</ref><ref>Sujato, Bhikkhu. ''Tông phái và chủ nghĩa bè phái: Nguồn gốc của các trường phái Phật giáo.'' 2006. tr. 59</ref>
Khuynh hướng của tịnh xá Abhayagiri trở thành phái Theravāda chiếm ưu thế đã thay đổi ở thế kỷ XII, khi phái Đại Tự được sự hỗ trợ về chính trị của nhà vua [[Parakramabahu I của Sri Lanka|Parakkamabāhu I]] (1153–1186), và hoàn toàn bãi bỏ các truyền thống Nguyên Thủy giáo của Abhayagiri và Kỳ Viên.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 126</ref><ref name="Williams, Duncan 1999. p. 134">Williams, Duncan. Queen, Christopher. ''Phật giáo Hoa Kỳ: các phương pháp và các khám phá trong sự bác học hiện nay.'' 1999. tr. 134</ref> Các nhà sư Theravāda của hai truyền thống này sau đó bị buộc phải hoàn tục và định sẵn sự chọn lựa về điều hướng thành người thế tục vĩnh viễn, hoặc cố gắng để tái phối theo truyền thống phái Đại Tự như "Sa-di" (''[[Sa-di|{{IAST|sāmaṇera}}]]'').<ref name="Williams, Duncan 1999. p. 134"/><ref name="Gombrich, Richard 1988">Gombrich, Richard. ''Phật giáo Nguyên Thủy: Lịch sử xã hội từ Ba Tư Nặc cổ đại đến Colombo hiện đại.'' 1988. tr. 159</ref>
===Lan đến Đông Nam Á===
[[Hình:Bagan, Burma.jpg|nhỏ|trái|Tàn tích của [[Bagan]], cố đô của [[Miến Điện]]. Hiện có hơn 2000 ngôi chùa Phật giáo. Trong thời đỉnh cao quyền lực của Bagan có đến 13'000 ngôi chùa.<ref group=web>{{chú thích web|url=http://www.asiaexplorers.com/myanmar/bagan_travel_guide.htm |title=Plan your trip to Bagan (Pagan), Myanmar |publisher=AsiaExplorers |date=ngày 25 tháng 11 năm 2003 |accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2012}}</ref>]]
===Hiện đại hóa và lan rộng đến Tây phương===
[[Hình:Yattawmu Paya.JPG|nhỏ|upright|[[Laykyun Setkyar|Tượng Phật Laykyun Setkyar]] trong ngôi làng của Khatakan Taung, gần [[Monywa]] ở [[Miến Điện]].
Hàng 95 ⟶ 90:
==Sự khác biệt giáo lý với các trường phái khác==
{{Xem thêm|Phật giáo thời đầu|Nghiên cứu Phật giáo Nguyên Thủy|Phật giáo bộ phái}}
▲Đó là phái tương đối bảo thủ, và theo như tiến sĩ [[Rupert Gethin]], giáo phái này gần với Phật giáo ban đầu hơn là các giáo phái truyền thống khác hiện có nay.<ref>Gethin, Rupert. ''Những nền tảng của Phật giáo'', tr.1. Oxford University Press, 1998.</ref> Thượng tọa bộ thừa nhận rằng Thích Ca là một nhân vật lịch sử, một con người và cũng có những hạn chế nhất định của con người như đau lưng, khó chịu với sự ồn ào,...<ref>Minh Chi, "Bàn về các chủ thuyết của các bộ phái", ''Phật học cơ bản'' - Tập II.</ref>
===Các bậc A-la-hán là hoàn hảo===
Phái [[Đại chúng bộ]] cho rằng [[A-la-hán]] còn có thoái lui, trong khi phái Nguyên Thủy Thượng tọa bộ cho rằng các A-la-hán có một "thể tính cao khiết".{{sfn|Warder|2000|p=283}}
Hàng 160 ⟶ 157:
==Sưu tập==
<center>
==Hình ảnh==
<gallery>
Image:Shwedagon-Pagoda-Night.jpg|[[Chùa Shwedagon]] ở [[Yangon]], là ngôi chùa thiêng liêng nhất ở [[Miến Điện]].
Hàng 175 ⟶ 172:
{{tham khảo|group=lower-alpha|2}}
==
===
{{tham khảo|2}}
===
{{tham khảo|group=web}}
==Tài liệu tham khảo==
{{refbegin}}
* {{Citation | last =Chapman | first =David | year =2011 | title =Theravāda reinvents meditation | url =http://en.wikipedia.org/wiki/Special:ArticleFeedbackv5Watchlist?ref=watchlist }}
|