Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thượng tọa bộ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
nKhông có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 20:
**[[Phật giáo Malaysia|Malaysia]] (có 19.2% dân số)
**[[Phật giáo Indonesia|Indonesia]] (có 0.72% dân số)
**[[Phật giáo Singapore|Singapore]] là nơi mà gần đây
*[[Phật giáo phương Tây|Tây Phương]] nhánh
Ngày nay, tín đồ Phật tử Thượng tọa bộ có 150 triệu người toàn thế giới, và trong suốt vài thập kỷ qua, Phật giáo Thượng tọa bộ đã bắt đầu [[phong trào Vipassana|bén rễ ở Phương Tây]] {{refn|group=lower-alpha|John Bullit: "Trong thế kỷ trước, mặc dù Phương Tây đã bắt đầu chú ý đến những di sản tinh thần độc đáo và giáo huấn về Giác Thức của Phật giáo
==Lịch sử==
Dòng 37:
===Truyền đến Sri Lanka===
Theo nhà học giả Phật giáo [[A.K. Warder]], thì Phật giáo
{{quote|... nhanh chóng lan rộng về phía nam từ [[Avanti (Ấn Độ)|Avanti]] vào [[Maharastra]] và [[Andhra Pradesh|Andhra]] và xuống đến nước Chola ([[Kanchi]]), cũng như ở [[Sri Lanka|Tích Lan]]. Trong một thời gian họ tự mình nắm giữ ở Avanti cũng như các vùng lãnh thổ mới của họ, nhưng dần dần họ có xu hướng tự mình tụ tập lại ở miền nam, tòa Đại Xá (Mahavihara) ở [[Anuradhapura]], kinh đô của nước Tích Lan, trở thành trung tâm chính về tín ngưỡng lưu truyền của họ, còn Kanchi là trung tâm thứ cấp và ở vùng phía bắc dường như đã từ bỏ các trường phái khác.{{sfn|Warder|2000|p=278}}}}
Theo như biên niên sử Pali của truyền thống [[người Sinhala]], Phật giáo lần đầu tiên được đưa đến Sri Lanka do vị A-la-hán là [[Ma-hi-đà]] (Mahinda), người được cho là con trai của đức vua [[A-dục vương]] - vua của [[Đế quốc Maurya]], ở thế kỷ thứ III TCN, một phần của ''dhammaduta'' (người truyền giáo) hoạt động vào thời vua A-dục. Ở Sri Lanka, ngài A-la-hán Ma-hi-đà đã thành lập [[Mahavihara|Tu viện Đại Xá]] của Anuradhapura.
Dòng 62:
===Ảnh hưởng của Đại Thừa===
[[Tập tin:Watpailom 07.jpg|thumb|170px|[[Tăng sĩ]] Phật giáo Nam tông tại Thái Lan đi khất thực]]
Qua nhiều thế kỷ, những tu sĩ Thượng tọa bộ ở Abhayagiri đã duy trì chặt chẽ mối quan hệ với những tín đồ Phật giáo Ấn Độ và thu nhận nhiều giáo lý mới mẻ từ Ấn Độ.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời Đại Thừa.'' 2007. tr. 124</ref> bao gồm nhiều yếu tố của giáo lý [[Đại thừa]], trong khi những
Huyền Trang đã viết về hai sự phân chia của Thượng tọa bộ ở Sri Lanka, đề cập đến truyền thống của Abhayagiri là "Những người Thượng tọa bộ Đại Thừa," và truyền thống của phái Đại Tự là "[[Tiểu thừa]] Thượng tọa bộ."<ref>Baruah, Bibhuti. ''Các tông phái Phật giáo và Chủ nghĩa bè phái.'' 2008. tr. 53</ref> Huyền Trang còn tiếp tục viết rằng:<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời Đại Thừa.'' 2007. tr. 121</ref>
Dòng 70:
Akira Hirakawa có những ghi chú rằng những chú luận Pāli còn được tồn tại (''[[Atthakatha|{{IAST|Aṭṭhakathā}}]]'') của trường phái Mahāvihāra, khi đã có sự duyệt kiểm chặt chẽ, cũng bao gồm một số các vị trí có sự ăn khớp với giáo lý Đại Thừa.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời Đại Thừa.'' 2007. tr. 257</ref> Kalupahana cũng ghi chú những tương tự về ''[[Thanh tịnh đạo]]'' (Visuddhimagga), là chú dẫn của Theravāda mang tính quan trọng nhất.{{sfn|Kalupahana|1994|p=206-208}}
Trong thế kỷ thứ VIII, được biết rằng cả Đại Thừa và phái Mật tông [[Kim cương thừa]] (Vajrayāna) - hình thức của đạo Phật đã được thực hành ở Sri Lanka, và hai nhà sư Ấn Độ có trách nhiệm truyền bá Phật giáo Bí Truyền tại Trung Quốc là [[Kim Cương Trí]] (Vajrabodhi) và [[Bất Không Kim Cương]] (Amoghavajra), đã từng đến thăm hòn đảo trong suốt thời gian này.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời Đại Thừa.'' 2007. tr. 125-126</ref> Tinh xá Abhayagiri có vẻ như là nơi trung tâm gộp những giáo lý của
===Bãi bỏ các truyền thống Thượng tọa bộ khác===
Một số học giả cho rằng những người lãnh đạo của Sri Lanka đã bảo đảm rằng Theravāda vẫn giữ nguyên truyền thống, và điều này có đặc điểm tương phản với Phật giáo Ấn Độ.<ref>Randall Collins, ''Xã hội học của triết lí: Một lý thuyết toàn cầu về biến đổi trí tuệ.'' Harvard University Press, 2000, trang 187.</ref> Tuy nhiên, trước thế kỷ XII, nhiều nhà lãnh đạo của Sri Lanka đã đem sự ủng hộ và bảo trợ cho những người Thượng tọa bộ ở Abhayagiri, và những du khách ví như Pháp Hiển thấy được phái Thượng tọa bộ Abhayagiri như đã trở thành truyền thống Phật giáo chính Sri Lanka.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 125</ref><ref>Sujato, Bhikkhu. ''Tông phái và chủ nghĩa bè phái: Nguồn gốc của các trường phái Phật giáo.'' 2006. tr. 59</ref>
Khuynh hướng của tịnh xá Abhayagiri trở thành phái Theravāda chiếm ưu thế đã thay đổi ở thế kỷ XII, khi phái Đại Tự được sự hỗ trợ về chính trị của nhà vua [[Parakramabahu I của Sri Lanka|Parakkamabāhu I]] (1153–1186), và hoàn toàn bãi bỏ các truyền thống
===Lan đến Đông Nam Á===
Dòng 89:
==Sự khác biệt giáo lý với các trường phái khác==
{{Xem thêm|
Đó là phái tương đối bảo thủ, và theo như tiến sĩ [[Rupert Gethin]], giáo phái này gần với Phật giáo ban đầu hơn là các giáo phái truyền thống khác hiện có nay.<ref>Gethin, Rupert. ''Những nền tảng của Phật giáo'', tr.1. Oxford University Press, 1998.</ref> Thượng tọa bộ thừa nhận rằng Thích Ca là một nhân vật lịch sử, một con người và cũng có những hạn chế nhất định của con người như đau lưng, khó chịu với sự ồn ào,...<ref>Minh Chi, "Bàn về các chủ thuyết của các bộ phái", ''Phật học cơ bản'' - Tập II.</ref>
===Các bậc A-la-hán là hoàn hảo===
Phái [[Đại chúng bộ]] cho rằng [[A-la-hán]] còn có thoái lui, trong khi phái
===Quán sát là bất ngờ và hoàn toàn ===
Theo như
===Các Pháp===
Dòng 225:
{{Viết tắt Phật học}}
[[Thể loại:Triết lý Phật giáo]]
[[Thể loại:Tông phái Phật giáo]]
|