Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạn tự hành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động
Dòng 27:
===Đạn tự hành chống hạm===
[[Hình:Brahmos imds.jpg|thumb|trái|300px|Brahmos]]
Nếu nhìn về lịch sử đánh nhau trên mặt nước thì trước WW2 các vũ khí đánh nhau chủ yếu là pháo cỡ lớn 3xx-4xxmm, và chống cự lại chúng băng giáp thép dày hơn nửa mét. Trong WW2, Nhật Bản đã gây choangchoáng vì thiết kế hạm đội mới có tàu diệt tàu chủ lực là tàu sân bay. Từ đó, Mỹ học theo Nhật và cho đến nay vẫn dùng hạm đội kiểu Nhật Bản, loại hạm đội có tàu sân bay là vũ khí diệt tàu chủ lực. Đương nhiên, máy bay có tầm xa và mang được bom lớn hơn nhiều pháo lắp trên tàu. Đến cuối chiến tranh, khi đã yếu, Nhật Bản đã dùng máy bay có người lái cảm tử như một loại đạn. Nhưng dĩ nhiên máy bay có người lái quá cồng kềnh và không thể có khả năng vận động mạnh mẽ như máy bay tự động. Người ĐỨc đã thử nghiệm dùng đạn hành trình V2 để chống tàu, nhưng đạn này có khả năng vận động kém. Fritz X là loại đạn chống hạm đầu tiên, được Đức đưa ra và đã lập các chiến công lớn như bắn chìm soái hạm Ý. Ruhrstahl X-1 (Fritz X) có thể có động cơ nhỏ hay không có động cơ, nên nó lai giữa [[bom lượn]] và tên lửa, được lái qua sóng radio bởi hệ thống lái Kehl-Straßburg (phát triển bởi Telefunken) <ref>[http://www.wehrmacht-history.com/luftwaffe/missiles/ruhrstahl-x-1-anti-ship-missile.htm Ruhrstahl X-1 Kramer X-1 (Fritz X) Anti-ship Missiles<!-- Bot generated title -->]</ref>, đạn mang đầu chứa 300&nbsp;kg thuốc nổ và có tầm xa 5&nbsp;km, thả từ máy bay, tổng khối lượng phiên bản không động cơ 1362&nbsp;kg, đầu đạn có mũ bảo vệ 130mm hợp kim nhôm.
 
Sau chiến tranh, Liên Xô đã nỗ lực vượt bậc để đưa đạn tự hành chống hạm cũng như các loại đạn tự hành khác vào ứng dụng thực tế. CHiến lược của Liên Xô là phát triển các tàu sân bay bay tức các máy bay hạng nặng, bắn ra các đạn tự hành tức các máy bay không người lái. Khác với Liên Xô, Mỹ dừng lại ở mức hạm đội máy bay có người lái kiểu Nhật Bản. Loại đạn tự hành chống hạm được sản xuất lớn đầu tiên là KS-1 Kometa <ref>http://www.aviation.ru/Missiles/KS-1.html</ref>, đầu 195x, đây là phiên bản máy bay MiG-15 không người lái, mỗi Tu-16 mang được 2 đạn, đầu đạn nhồi 400&nbsp;kg thuốc, bắn xa 80&nbsp;km, điều khiển bằng radar. Sau này đạn KS-1 được cải tiến nhiều, tăng độ tin cậy, tầm xa, sức công phá, có các phiên bản bắn từ máy bay, xe cơ giới mặt đất và tàu biển. So với MiG-15 nguyên thủy thì đạn đổi sang dùng loại động cơ gọn nhẹ hơn, đổi lấy việc giảm tuổi thọ. Cho đến 197x Liên Xô cho ra loại chiến hạm chuyên dùng đạn tự hành trong vai trò tàu đối kháng diệt tàu chủ lực là Kirov Class (Type 1144.2), ngày nay chiếc Kirov đổi tên là Peter the Great (Piotr Đại Đế), nó đã lên đà hiện đại hóa nhiều lần, chạy bằng năng lượng hạt nhân. Tàu không mang giáp dày mà tự vệ bằng hệ thống phòng không nhiều tầng, radar lớn nhất trong số các tàu chiến. Vũ khí tấn công chủ yếu của tàu là các đạn P-700 Granit tầm bắn 700&nbsp;km, đầu nhồi 750&nbsp;kg thuốc, tốc độ tối đa M2,5, đường bay là là cách mặt biển 15 mét, cả đạn nặng 7 tấn.