Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Duy Tân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 7:
[[Tháng 7]] năm [[1885]], hưởng ứng [[chiếu Cần Vương|dụ Cần Vương]], Tống Duy Tân được vua [[Hàm Nghi]] phong làm Chánh sứ sơn phòng [[Thanh Hóa]]. Sau đó, ông tham gia xây dựng chiến khu [[Ba Đình]].
Năm [[1886]], Tống Duy Tân và [[Cao Điển]]<ref> [[Phạm Văn Sơn]] ghi là Cao Điền.</ref> nhận lệnh của thủ lĩnh [[Đinh Công Tráng]] đến Phi Lai ([[Hà Trung]], Thanh Hóa) lập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho căn cứ chính là Ba Đình. Ngoài căn cứ Phi Lai trong sự nghiệp chung, Tống Duy Tân còn chuẩn bị lực lượng và căn cứ kháng Pháp ngay tại quê hương mình, đó là căn cứ Hùng Lĩnh, nằm ở vùng thượng nguồn [[sông Mã]] thuộc [[Vĩnh Lộc]], [[Thanh Hóa]].
Đầu năm [[1887]], đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội [[phong trào Cần Vương]] ở tỉnh này. Căn cứ [[Ba Đình]] và căn cứ [[Mã Cao]] nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh ([[Đinh Công Tráng]], [[Nguyễn Khế]], [[Hoàng Bật Đạt]]), tự sát ([[Phạm Bành]], [[Hà Văn Mao]], [[Lê Toại]]), hoặc đi tìm phương kế khác ([[Trần Xuân Soạn]]).
Trước tình thế hiểm nguy, Tống Duy Tân bèn mang quân chạy lên
Xét thấy lực lượng Hùng Lĩnh vừa gầy dựng bị cô thế và yếu sức hơn, Tống Duy Tân bèn đi ra [[Bắc Kỳ|Bắc]] rồi [[Trung Quốc]] để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia [[Phạm Văn Sơn]] thì Tống Duy Tân đã gặp [[Tôn Thất Thuyết]] tại [[Quảng Đông]], và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về [[Thanh Hóa]] để tiếp tục công cuộc kháng Pháp <ref> ''Việt sử tân biên'', sách đã dẫn, tr. 138.</ref>.
|