Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thượng tọa bộ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 38:
===Phân nhánh phái Thượng tọa bộ===
Theo thời gian, một số bất đồng trong nội bộ phái Thượng tọa bộ về giới luật đã nảy sinh. Những bất đồng về quan niệm trong Thượng tọa bộ khiến cho bộ này bắt đầu phân phái.
 
* [[Thuyết nhất thiết hữu bộ]] (''Saivàstivàdàh''), gọi tắt là Hữu bộ, cũng có tên khác là Thuyết nhân bộ (Hetuvàdàh) do [[Katyayaniputra]] sáng lập. Phái này đề cao luận tạng. Phái này nhanh chóng phát triển, lấn lướt phái gốc và chiếm căn cứ của phái gốc, khiến cho phái gốc phải chuyển căn cứ đến núi Tuyết Sơn và từ đó Thượng tọa bộ gốc được gọi là Tuyết Sơn bộ (''Haimavàtàh'').
Một nhánh tách ra rất sớm từ Thượng tọa bộ là Chánh Lượng Bộ (''Sammitīya''). Sau đó, Độc Tử Bộ (''Vātsīputrīya'') lại tách ra từ Chánh lượng bộ.<ref>[[Thích Nhất Hạnh]], ''[http://vuonhoaphatgiao.com/phat-hoc/triet-hoc/hai-khuynh-huong-lon-trong-lich-su-tu-tuong-phat-giao/ Hai khuynh hướng lớn trong lịch sử tư tưởng Phật giáo]''.</ref>
* [[Ðộc Tử bộ]] (''Vatsipatriyàli''): tách ra từ Thuyết nhất thiết hữu bộ. Phái này chủ trương tập trung vào ''Pháp uẩn túc luận'' tương truyền do [[Xá-lợi-phất]] biên soạn. Sau do bất đồng quan điểm trong Độc Tử bộ về một bài kệ liên quan đến quả Thánh trong Pháp uẩn túc luận, từ Độc Tử bộ lại hình thành 4 phái kế tiếp.
 
* [[Ðộc Tử bộ]] (''Vatsipatriyàli''): tách ra từ Thuyết nhất thiết hữu bộ. Phái này chủ trương tập trung vào ''Pháp uẩn túc luận'' tương truyền do [[Xá-lợi-phất]] biên soạn. Sau do bất đồng quan điểm trong Độc Tử bộ về một bài kệ liên quan đến quả Thánh trong Pháp uẩn túc luận, từ Độc Tử bộ lại hình thành 4 phái kế tiếp.:
* [[Pháp Thượng bộ]] (''Dharmottariyàh''),
* [[Hiền trú bộ]] (''Dhadrayàniyàh''),
* [[Mật lâm sơn bộ]] (''Sandagirikàh'').<ref>Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tập 2.</ref>
* [[Chánh lượng bộ]] (''Sammitiyà''h)
 
* [[Mật lâm sơn bộ]] (''Sandagirikàh'')
Khoảng 200 năm sau khi Phật qua đời (tức khoảng thế kỷ III TCN), một nhánh nữa tách khỏi Thượng tọa bộ, đó là [[Thuyết nhất thiết hữu bộ]] (''Saivàstivàdàh''), gọi tắt là Hữu bộ, cũng có tên khác là Thuyết nhân bộ (''Hetuvàdàh'') do [[Katyayaniputra]] sáng lập. Hữu bộ trở thành một tông phái nổi tiếng vào bậc nhất nhờ lý thuyết: Tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu. Lúc này, Thượng tọa bộ gốc được gọi là [[Phân Biệt Thuyết Bộ]] (''Vibhajyavāda''). Về sau vua Asoka ủng hộ Phân Biệt Thuyết bộ hơn, nên Hữu bộ di cư lên Himalaya (Tuyết Sơn) và lập ra các trung tâm ở [[Kashmir]], [[Gandhara]] và [[Mathura]].<ref>Thích Nhất Hạnh, sđd.</ref>
* [[Hóa Ðịa bộ]] (''Mahìsarakàh''), cũng tách ra từ Thuyết nhất thiết hữu bộ,
 
* [[Pháp Tạng bộ]] (''Dharmaguptakàh''), tách ra từ Hóa Địa bộ,
*Sau này, [[Kinh lượng bộ]] (''Sautràntikàh'') hay còn có tên khác là Thuyết chuyển bộ (Samkràntivàdàh), cũnglại tách ra Thuyết nhất thiếttừ hữuHữu bộ.<ref>Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tập 2.</ref>
* [[Ẩm Quang bộ]] (''Kàsyapiyàh''), cũng tách ra từ Thuyết nhất thiết hữu bộ,
 
* [[Kinh lượng bộ]] (''Sautràntikàh'') hay còn có tên khác là Thuyết chuyển bộ (Samkràntivàdàh), cũng tách ra Thuyết nhất thiết hữu bộ.<ref>Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tập 2.</ref>
Trong khi đó, Phân Biệt Thuyết bộ lại tách thành [[Đồng Diệp bộ]] (''Tamrasātiya'') và [[Hóa Địa bộ]] (''Mahīsasāka''). Đồng Diệp bộ được [[Mahida]], con vua Asoka, mang tới [[Srilanka]].<ref>Thích Nhất Hạnh, sđd.</ref>
 
===Truyền đến Sri Lanka và biến đổi===