Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thượng tọa bộ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 56:
{{quote|... nhanh chóng lan rộng về phía nam từ [[Avanti (Ấn Độ)|Avanti]] vào [[Maharastra]] và [[Andhra Pradesh|Andhra]] và xuống đến nước Chola ([[Kanchi]]), cũng như ở [[Sri Lanka|Tích Lan]]. Trong một thời gian họ tự mình nắm giữ ở Avanti cũng như các vùng lãnh thổ mới của họ, nhưng dần dần họ có xu hướng tự mình tụ tập lại ở miền nam, tòa Đại Xá (Mahavihara) ở [[Anuradhapura]], kinh đô của nước Tích Lan, trở thành trung tâm chính về tín ngưỡng lưu truyền của họ, còn Kanchi là trung tâm thứ cấp và ở vùng phía bắc dường như đã từ bỏ các trường phái khác.{{sfn|Warder|2000|p=278}}}}
 
Theo như biên niên sử [[Pali]] truyền thống của [[người Sinhala]], Phật giáo lần đầu tiên được đưa đến Sri Lanka bởi [[Ma-hi-đà]] (Mahinda), người được cho là con trai của đức vua [[A-dục vương|Asoka]] của [[Đế quốc Maurya]], ở thế kỷ thứ III TCN trong khuôn khổ phong trào ''dhammaduta'' (người truyền giáo). Ở Sri Lanka, Ma-hi-đà đã thànhthuyết lậpphục được vua Devanampiya-tissa theo đạo Phật. Nhà vua cho dựng chùa [[Mahavihara|Đại Tự]] ở [[Anuradhapura]], kinh đô Sri Lanka thời đó. Sau này, em gái Ma-hi-đà mang xá lị Phật và chồi cây bồ-đề tới trồng ở chùa này, càng làm cho uy tín của Phật giáo và của chùa Mahavihara tăng cao.<ref>Hoàng Phong, ''[https://thuvienhoasen.org/p21a18625/11/tim-hieu-phat-giao-theravada-bai-3 Lịch sử phát triển của Phật giáo Theravada]''.</ref>
 
Khoảng đầu thế kỷ II TCN, cao tăng [[Mahâtissa]] có công giúp vua Sri Lanka [[Vattagâmani]] đánh đuổi [[quân Tamil]] từ [[Nam Ấn Độ]] tới xâm lược. Nhà vua đền ơn vị cao tăng này bằng cách xây chùa [[Abhayagirivihâra]] còn lớn hơn cả chùa Mahavihara và cho vị cao tăng này trụ trì. Vì nguyên nhân này, Mahâtissa bị tăng đoàn Mahavihara trục xuất, và tự lập tăng đoàn riêng là Dhammaruciya. Do áp lực của Dhammaruciya, chùa Mahavihara bị vua cho phá hủy khiến tăng đoàn phải xây lại. Biến cố này cùng với nguy cơ thường trực bị Tamil xâm lược đã thúc đẩy các nhà sư chùa Mahavihara ghi lại kinh Phật trên lá bối bằng tiếng Pali.<ref>Hoàng Phong, sđd.</ref>
Thời gian đầu khi mới truyền đến Sri Lanka, ba phân khu của Thượng tọa bộ còn tồn tại ở Sri Lanka, bao gồm các tu sĩ của phái [[Đại Tự]] (Mahāvihāra), [[Tịnh xá Abhayagiri]], và [[Tịnh xá Kỳ Viên]].<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280">Warder, A.K. ''Phật giáo Ấn Độ''. 2000. tr. 280</ref> Tòa Đại Tự là nơi truyền bá đầu tiên được xây dựng, trong khi đó tịnh xá Abhayagiri and tịnh xá Kỳ Viên được thành lập do các nhà sư bị tan ra từ tín truyền Mahāvihāra (Đại Xá).<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/> Theo như A.K. Warder, phái Hóa Địa bộ Ấn Độ cũng đã tự thành lập ở Sri Lanka cùng với phái Theravāda, và chúng được tiếp thụ sau này.<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/> Khu vực phía bắc của Sri Lanka dường như cũng đã nhường lại cho các thể phái từ Ấn Độ trong thời gian nhất định.<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/>
 
Theo như A.K. Warder, phái Hóa Địa bộ Ấn Độ cũng đã tự thành lập ở Sri Lanka cùng với phái Theravāda, và chúng được tiếp thụ sau này.<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/> Khu vực phía bắc của Sri Lanka dường như cũng đã nhường lại cho các thể phái từ Ấn Độ trong thời gian nhất định.<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/> Tăng đoàn Dhammaruciya ở chùa Abhayagirivihâra giữ vị trí chủ đạo do được triều đình coi trọng hơn. Về sau họ ít nhiều tiếp thu các tư tưởng Đại thừa - điều này được sư Trung Quốc [[Huyền Trang]] ghi nhận.<ref>Hoàng Phong, sđd.</ref>
[[Hình:Dambulla 16.jpg|nhỏ|Đức Phật sơn vẽ ở [[chùa hang Dambulla]] tại [[Sri Lanka]]. Chùa hang Phật giáo phức tạp được thành lập như một tu viện Phật giáo ở thế kỷ III TCN. Các hang được chuyển đổi thành chùa chiền trong thế kỷ I TCN.<ref>{{chú thích web|url=http://whc.unesco.org/en/list/561 |title=Golden Temple of Dambulla - UNESCO World Heritage Centre |publisher=Whc.unesco.org |date= |accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2012}}</ref>]]
 
[[Hình:Dambulla 16.jpg|nhỏ|Đức Phật sơn vẽ ở [[chùa hang Dambulla]] tại [[Sri Lanka]]. Chùa hang Phật giáo phức tạp được thành lập như một tu viện Phật giáo ở thế kỷ III TCN. Các hang được chuyển đổi thành chùa chiền trong thế kỷ I TCN.<ref>{{chú thích web|url=http://whc.unesco.org/en/list/561 |title=Golden Temple of Dambulla - UNESCO World Heritage Centre |publisher=Whc.unesco.org |date= |accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2012}}</ref>]]
Khi nhà sư Trung Quốc là [[Pháp Hiển]] du hành thăm hòn đảo này vào những năm đầu thế kỷ thứ V, ông lưu ý 5000 nhà sư ở Abhayagiri, 3000 nhà sư ở Đại Tự và 2000 nhà sư ở tịnh xá Cetiyapabbata.<ref name="Hirakawa, Akira 2007. p. 121">Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 121</ref>
 
Một số học giả cho rằng những người lãnh đạo của Sri Lanka đã bảo đảm rằng Theravāda vẫn giữ nguyên truyền thống, và điều này có đặc điểm tương phản với Phật giáo Ấn Độ.<ref>Randall Collins, ''Xã hội học của triết lí: Một lý thuyết toàn cầu về biến đổi trí tuệ.'' Harvard University Press, 2000, trang 187.</ref> Tuy nhiên, trước thế kỷ XII, nhiều nhà lãnh đạo của Sri Lanka đã đem sự ủng hộ và bảo trợ cho những người Thượng tọa bộ ở Abhayagiri, và những du khách ví như Pháp Hiển thấy được phái Thượng tọa bộ Abhayagiri như đã trở thành truyền thống Phật giáo chính Sri Lanka.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 125</ref><ref>Sujato, Bhikkhu. ''Tông phái và chủ nghĩa bè phái: Nguồn gốc của các trường phái Phật giáo.'' 2006. tr. 59</ref>
 
Khuynh hướng của tịnh xáphái Abhayagiri trở thành phái Theravāda chiếm ưu thế đã thay đổi ở thế kỷ XII, khi phái Đại TựMahavihara được sự hỗ trợ về chính trị của nhà vua [[Parakramabahu I của Sri Lanka|Parakkamabāhu I]] (1153–1186), và hoàn toàn bãi bỏ các truyền thống Thượng tọa bộ của Abhayagiri và Kỳ Viên.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời phái Đại Thừa.'' 2007. tr. 126</ref><ref name="Williams, Duncan 1999. p. 134">Williams, Duncan. Queen, Christopher. ''Phật giáo Hoa Kỳ: các phương pháp và các khám phá trong sự bác học hiện nay.'' 1999. tr. 134</ref> Các nhà sư Theravāda của hai truyềnphái thốngcòn nàylại sau đó bị buộc phải hoàn tục và định sẵn sự chọn lựa về điều hướng thành người thế tục vĩnh viễn, hoặc cố gắng để tái phối theo truyền thống phái Đại TựMahavihara như "Sa-di" (''[[Sa-di|{{IAST|sāmaṇera}}]]'').<ref name="Williams, Duncan 1999. p. 134"/><ref name="Gombrich, Richard 1988">Gombrich, Richard. ''Phật giáo Nguyên Thủy: Lịch sử xã hội từ Ba Tư Nặc cổ đại đến Colombo hiện đại.'' 1988. tr. 159</ref>
 
===Ảnh hưởng của Đại Thừa===