Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sương Nguyệt Anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
''' Sương Nguyệt Anh''' (孀月英, [[1 tháng 2]] năm [[1864]] - [[20 tháng 1]] năm [[1921]])<ref>Ghi theo ''Nguyễn Đình Chiểu toàn tập'' (tập 2, Nhà xuất bản. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1980, tr. 28) và Mai Huỳnh Hoa (''Từ điển văn học'', bộ mới, tr. 1576). Bia mộ ghi bà "mất ngày 12 [[tháng hai|tháng 2]] năm [[Tân Dậu]] ([[1922]]), hưởng thọ 58 tuổi". Chưa rõ vì sao có sự khác biệt này.</ref>, tên thật là '''Nguyễn Thị Khuê''' (theo "Nguyễn chi thế phổ")<ref>"Nguyễn chi thế phổ" do [[Nguyễn Đình Chiểu]] biên soạn, Nguyễn Đình Huy (cha ông Chiểu) hiệu chính.</ref>, tuy nhiên tên ghi trên bia mộ lại là '''Nguyễn Ngọc Khuê''', tự là '''Nguyệt Anh'''. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như: '''Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh'''... Bà là [[nhà thơ]] và là chủ bút nữ đầu tiên của [[Việt Nam]]. Tờ báo ''[[Nữ giới chung]]'' do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]<ref>Theo ''Nguyễn Đình Chiểu toàn tập'', tập 1, tr. 28.</ref>.
 
== Tiểu sử ==
Dòng 7:
Thuở nhỏ, bà cùng người chị tên là Nguyễn Thị Xuyến, được cha (Đồ Chiểu) truyền dạy nên giỏi cả [[chữ Hán]] lẫn [[chữ Nôm]]. Khi cả hai khôn lớn, nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là ''Nhị Kiều''.
 
Năm [[1888]], Sương Nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại... Để tránh tai họa, bà cùng gia đình người anh (Nguyễn Đình Chúc) chuyển sang Cái Nứa ([[Mỹ Tho]]) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một phó tổng sở tại góa vợ tên Nguyễn Công Tính <ref>Có sách ghi tên Trình. Ở đây ghi theo [[Nguyễn Liên Phong]] vì ông là người sống cùng thời với Sương Nguyệt Anh. Ngoài ra, ông còn cho biết thêm chi tiết: ''"Con gái ông Đồ Chiểu hình trạng nho nhã ốm yếu, tính nết điềm tịnh hiền lành. Thuở nhỏ cô lấy chồng, tên là thầy phó Tính, về ở theo quê chồng tại chợ Rạch Miễu"'' (''Điếu cổ hạ kim thi tập'' xuất bản [[1915]]).</ref>, sinh được một gái tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi, thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy [[chữ Hán|chữ Nho]] cho học trò trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ "sương" (孀), thành "Sương Nguyệt Anh", có nghĩa là Nguyệt Anh goá chồng.
 
Những năm [[1906]]-[[1908]], hưởng ứng [[phong trào Đông Du]] của [[Phan Bội Châu]] bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang [[Nhật Bản|Nhật]] du học.
 
Năm [[1917]], Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm [[chủ bút]] tờ ''Nữ giới chung'' nghĩa là "tiếng chuông của nữ giới". Tờ báo ra số đầu tiên ngày [[1 tháng 2]] năm [[1918]], với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội <ref>Toà soạn đặt tại số nhà 15 đường Taberd (nay là đường [[Nguyễn Du]], [[quận 1, thành phố Hồ Chí Minh|quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh]]). Chủ nhiệm là ông Henri Blanquière. Tờ báo phát hành định kỳ hàng tuần với các chuyên mục: xã thuyết, văn nghệ, gia chánh, học nghề, cùng các trang lời hay ý đẹp và mẹ con nói chuyện. Có thể nói, "Nữ giới chung" là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam thời đó chú trọng đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán những luật lệ khắt khe đối với nữ giới.[http://www.quehuong.org.vn/vi/nr050307131435/nr050106094245/nr050302121615/ns060616092328],</ref>. Nhưng dù ngòi bút của Sương nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. [[tháng bảy|Tháng 7]] năm [[1918]], tờ Nữ Giới Chung bị đình bản <ref>Theo Nguyễn Ngọc Hiền'', Nữ sĩ Việt Nam'', Nhà xuất bản Thanh Niên, 2005, tr.478.</ref>. Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà tên Nguyễn Thị Vinh <ref>Cô Vinh lấy chồng là ông [[Mai Văn Ngọc|Mai Bạch Ngọc]] (hay Mai Văn Ngọc), sinh một cô con gái đặt tên Mai Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba, sau này kết duyên với nhà hoạt động chính trị [[Phan Văn Hùm]] ([[1902]]-[[1946]]), tác giả ''Ngồi tù khám lớn'' ([[1929]])</ref>, vừa sinh nở xong, ngã bệnh qua đời.
Nhưng dù ngòi bút của Sương nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại, [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[1918]], tờ Nữ Giới Chung bị đình bản <ref>Theo Nguyễn Ngọc Hiền'', Nữ sĩ Việt Nam'', Nhà xuất bản Thanh Niên, 2005, tr.478.</ref>.
Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà tên Nguyễn Thị Vinh <ref>Cô Vinh lấy chồng là ông [[Mai Văn Ngọc|Mai Bạch Ngọc]] (hay Mai Văn Ngọc), sinh một cô con gái đặt tên Mai Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba, sau này kết duyên với nhà hoạt động chính trị [[Phan Văn Hùm]] ([[1902]]-[[1946]]), tác giả ''Ngồi tù khám lớn'' ([[1929]])</ref>, vừa sinh nở xong, ngã bệnh qua đời.
Hết khóc mẹ, khóc cha, khóc chồng, lại phải khóc con cộng với việc viết lách rất lao tâm, khiến đôi mắt của bà thường xuyên đau nhức và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hòa (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là [[Nguyễn Đình Chiêm]] để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù lòa hẳn.
Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm ngày 12 [[tháng chạp|tháng Chạp]] năm [[Tân Dậu]] (tức 9 [[tháng một|tháng 1]] năm [[1922]]), Sương Nguyệt Anh trút hơi thở cuối cùng, lúc 58 tuổi <ref>Ngày mất ghi theo bia mộ. Nhưng theo Mai Huỳnh Hoa thì bà mất tại [[Ba Tri]] ngày 2 [[tháng chạp|tháng Chạp]] năm [[Canh Thân]] tức 20 [[tháng một|tháng 1]] năm [[1921]] (''Từ điển Văn học'', tập 2. Nhà xuất bản KHXH, tr. 320).</ref>.
 
Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau (năm [[1959]]) được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong ''khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu'' ngày nay.
 
== Tác phẩm ==
Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ còn tản mác một số bài thơ, như: ''Đoan Ngọ nhật điếu [[Khuất Nguyên]]'', ''Tức sự '', ''Chinh Phụ thi'', ''Thưởng bạch Mai'', ''Vịnh ni cô'', ''vua [[Thành Thái]] vào Nam'', ''cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến''... Và vài bài vè, như: ''Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề''...
 
== Một tấm lòng thơ ==
Hàng 28 ⟶ 26:
 
Để bộc lộ cuộc nợ duyên dang dở của mình, bà viết:
:''Năm canh thức nhấp... năm canh những''
:''Nửa gối so le, nửa gối chờ
:''Vườn én rủ ren trên lối cũ,
Hàng 45 ⟶ 43:
 
Năm [[1915]], ông Việt sĩ sau khi đã khen ngợi Sương Nguyệt Anh rằng: ''Cuộc đời bà đã trải qua biết bao đau khổ, nhưng biết bao nỗi khổ đó hình như để thử thách người thiếu phụ kiên trinh'', ông còn nhận định như sau:
:'' Nhắc đến Sương nguyệtNguyệt Anh, người ta còn thấy lại nơi bà một tấm gương hoạt động cho phái nữ lưu; người ta không quên một cây bút rắn rỏi đã từng nêu trên tờ ''Nữ giới chung'' nhiều vấn đề lý thú về phận sự đàn bà đối với gia đình và xã hội. Trong buổi giao thời, phụ nữ nước nhà vừa ra khỏi khuê môn để tiếp xúc với văn hóa Âu Tây, bà Sương Nguyệt Anh rất xứng đáng là nữ sĩ tiền phong trên đất Việt''<ref>Dẫn theo GS. Trịnh Vân Thanh, ''Thành ngữ danh nhân tự điển'', Nhà xuất bản Hồn Thiêng, [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], 1966, tr. 1161</ref>.
 
== Chú thích ==