Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 1:
[[Tập tin:Đinh Binh Thuy.jpg|nhỏ|phải|250px|[[Đình Bình Thủy]], [[Cần Thơ]].]]
'''Thành hoàng''' ([[chữ Hán]]: 城隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng [[Việt Nam]]. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là ''hộ quốc tỳ dân'' (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.
 
== Tên gọi ==
Dòng 19:
:''Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục [[Trung Quốc|Tàu]] truyền sang đến bên này, kế đến [[nhà Đinh|Đinh]], [[Nhà Lê sơ|Lê]] thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi.''
:''Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấuđâu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình... Dân ta tin rằng: "Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân", vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh...''<ref>''Việt Nam phong tục'', sách đã dẫn, tr.78-79. Những chữ trong ngoặc do người soạn chua thêm.</ref>
Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài ''Chuyện thần Tô Lịch'' trong sách [[Việt điện u linh tập|Việt điện u linh]]<ref>Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng tác giả của ''Việt điện u linh'' là [[Lý Tế Xuyên]], người đời [[nhà Trần]]. Ông soạn sách này vào năm 1329 (''Việt điện u linh'', tr. 6. và ''Từ điển văn học'' (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 1994.</ref>:
:''Thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ 2 (năm 822) tên Đô hộ Lý Nguyên Hỷ (hoặc Gia) thấy ngoài cửa bắc thành [[Long Biên]] có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm khắp, chọn một nơi cao ráo tốt, để có dời phủ lỵ đến đó... Nhân dịp ấy, y mới giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (ý nói đến thần [[sông Tô Lịch]]) làm Thành Hoàng. Trên dưới đều đồng lòng... Đến khi [[Cao Biền]] đắp [[hoàng thành Thăng Long|thành Đại La]], nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời [[Lý Thái Tổ]] lúc dời đô, thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng... (Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền khiến quan Thái Chúc (chức quan lo việc cầu đảo phúc lành) đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư (đến) cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay...''<ref>''Việt điện u linh'', tr. 104-105.</ref>
 
== Các thứ hạng ==
Dòng 29:
Phúc Thần có ba hạng:
* '''Thượng đẳng thần''' là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Tản viên Sơn thánh, Cao sơn, Quý Minh Đổng thiên vương<ref>Đông Thiên vương là Trì quốc thiên (持國天, sa. dhṛtarāṣṭra) có thân trắng, tay cầm đàn, tiếng đàn sẽ làm [[tinh thần|tâm thức]] con người trở nên thanh tịnh.</ref>, [[Thánh Gióng|Sóc thiên vương]], Chử đồng tử<ref>Chưa tra được. Không biết Phan Kế Bính có phải muốn nói đến [[Chử Đồng Tử]] hay không.</ref>, [[Liễu Hạnh công chúa]]... Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: [[Lý Thường Kiệt]], [[Trần Hưng Đạo]]... Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. Cũng có vị là nhân thần nhưng lại không được nhắc tới nhiều trong chính sử mà được nhắc tới nhiều trong dã sử và truyền thuyết như [[Đức thánh Tam Giang]].
* '''Trung đẳng thần''' là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần.
* '''Hạ đẳng thần''' do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần.
 
Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: ''thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết... Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì...''<ref>''Việt Nam phong tục'', tr. 75-75.</ref>
 
Riêng ở [[đồng bằng sông Cửu Long]], theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ.
Dòng 45:
== Nơi thờ phụng ==
[[Tập tin:Bàn thờ Thành hoàng.jpg|nhỏ|phải|200px|Bàn thờ thần Thành hoàng ([[Nguyễn Hữu Cảnh]]) ở [[đình Mỹ Phước]], [[Long Xuyên]].]]
Theo nhà học giả [[Nguyễn Văn Tố]], thì khởi đầu đình chỉ là cơ ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lịnhlệnh và huấn dụ của nhà vua...
Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu.
Dòng 52:
 
== Vai trò và ý nghĩa ==
Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ thể trên cõi thiêng của làng & đều mang tính chất chung là ''hộ quốc tỳ dân'' (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành... Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho ''mưa thuận gió hòa'', ''mùa màng tươi tốt''; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng.
Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu [[nhà Nguyễn]], cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khổnkhốn của đất nước trước [[đế quốc thực dân Pháp|thực dân Pháp]], cho nên vua [[Tự Đức]] đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc "Quốc điển hóa" sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên.<ref>Lược theo ''Văn hóa & tín ngưỡng Nam Bộ'' trong sách ''Hành hương đất phương Nam'', tr. 27.</ref>
== Xem thêm ==
* [[Đình|Đình làng]]