Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận đánh tại Algiers”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Other uses|Trận Algiers (định nghĩa)}}{{Infobox film|name=Trận đánh tại Algiers|image=The Battle of Algiers poster.jpg|caption=Ngày ra mắt phim|d…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 12:29, ngày 5 tháng 1 năm 2018

Trận đánh tại Algiers (tiếng Ý: La battaglia di Algeri; tiếng Ả Rập: معركة الجزائر‎; tiếng Pháp: La Bataille d'Alger) là một phim sử thi của ÝAlgérie do Gillo Pontecorvo viết và đạo diễn và được thủ vai bởi Jean MartinSaadi Yacef, người sau đó vốn là một chỉ huy của lực lượng Mặt trận Giải phóng Quốc gia Algérie (FLN) trong cuộc Chiến tranh Algérie. Bộ phim lấy chính bối cảnh của cuộc chiến tranh Algérie chống lại PhápBắc Phi, trong đó nổi trội hơn cả là trận Algiers, thủ đô Algérie. Phim được quay ở Casbah của Algérie và nhạc nền được làm bởi Ennio Morricone. Được gắn chặt với tư tưởng điện ảnh tân hiện thực Ý, vốn là thành quả mà Roberto Rossellini để lại, bộ phim được để nền trắng đen với góc quay chân thực thời hiện đại[1].

Trận đánh tại Algiers
Tập tin:The Battle of Algiers poster.jpg
Ngày ra mắt phim
Đạo diễnGillo Pontecorvo
Sản xuấtAntonio Musu
Yacef Saadi
Tác giảGillo Pontecorvo
Franco Solinas
Diễn viênJean Martin
Saadi Yacef
Brahim Haggiag
Tommaso Neri
Âm nhạcEnnio Morricone
Gillo Pontecorvo
Quay phimMarcello Gatti
Dựng phimMario Morra
Mario Serandrei
Phát hànhRizzoli, Rialto Pictures
Công chiếu
  • 31 tháng 8 năm 1966 (1966-08-31) (VIFF)
  • 8 tháng 9 năm 1966 (1966-09-08) (Algeria)
Độ dài
120 phút
Quốc giaÝ
Algérie
Ngôn ngữẢ Rập
Pháp
Kinh phí$800,000

Bộ phim đã được đón nhận rộng rãi ở rất nhiều nơi, đáng chú ý là các lực lượng bán vũ trang đòi ly khai, các phong trào giải phóng dân tộc cũng như các nhóm quân sự quốc tế tư nhân. Vào năm 2012, nó xếp thứ 48 trong tổng số 250 phim xuất sắc của tạp chí Sight & Sound[2] và đặc biệt là vị trí 120 trong số 500 phim kinh điển mọi thời đại của tạp chí Empire[3].

Pontecorvo đã đề cập tới sự độc lập khỏi Pháp của Algérie trong phần kết của phim. Lấy bối cảnh từ 1954 tới 1957, khi các nhóm du kích tiến hành các cuộc tấn công chống quân Pháp mở rộng tới Casbah, thành trì trung tâm của Algiers, và ý định tái chiếm khu vực của người Pháp, cũng như các hành động tra tấn của cả hai bên để chống lẫn nhau, đặc biệt là của người Pháp.

Do những tác động văn hóa chính trị nhạy cảm, Pháp đã cấm chiếu phim cho tới năm 1971[4].

Tóm tắt

Bộ phim tái hiện lại hoàn toàn bối cảnh của trận Algiers, khi người Pháp, với nỗ lực đè bẹp phe nổi dậy, và quân FLN tìm cách đánh trả người Pháp, bắt đầu với ý đồ dấy loạn của những người nổi dậy Algérie tại Casbah. Ngoài ra còn có cả các hoạt động bạo lực mà người Hồi giáo bản địa với người Pied-Noir dẫn tới sự xuất hiện của lính Pháp hòng tiêu diệt các phần từ FLN. Những người lính Pháp được coi như là những người chiến thắng sau khi vùi dập các phần tử FLN. Thế nhưng, phần kết phim chứng kiến các cuộc biểu tình và bạo loạn đòi độc lập chung quanh nhạc coda, vô hình chung hiện ra thực tế rằng người Pháp, dù thắng lợi về quân sự trong trận Algiers, nhưng đã hoàn toàn thất bại trong cả cuộc chiến.

Rất nhiều những cảnh tượng tra tấn, đàn áp, bạo lực cũng như các âm mưu sau lưng và các hoạt động của FLN và quân Pháp cũng được ghi chép lại. Bộ phim được kể qua con mắt của Ali La Pointe (Brahim Haggiag), một tên trộm vặt đường phố bị bỏ tù và bị cực đoan hóa cho tới khi được tuyển mộ bởi chính chỉ huy FLN Saadi Yacef (trong phim ông đóng vai El-Hadi Jafar)[5].

Trung tá Mathieu là nhân vật người Pháp chính trong phim. Các nhân vật khác bao gồm Petit Omar, một cậu bé đường phố thực tế là đưa tin viên của FLN; Djamila, Zohra, và Hassiba, ba cô gái của FLN thực hiện các hành động đánh bom; ngoài ra nó cũng có cả những cảnh quay hiện thực tại Algérie như các ảnh hưởng Hy Lạp tại Casbah, nhạc, đạo cụ, âm hưởng, tâm lý[6].

Sản xuất và thủ pháp nghệ thuật trong phim

Cảnh quay

Chịu ảnh hưởng từ hồi ký của chính Yacef trong tù, Souvenirs de la Bataille d'Alger, cuốn sách này của ông chính là biểu tượng mà các lực lượng FLN sử dụng để tuyên truyền[7]. Về sau, Yacef được thả và tham gia vào Chính phủ non trẻ của Algérie. Phim được ra mắt để tri ân Yacef, trong khi cựu thủ lĩnh FLN, Salash Baazi, tiến cử Pontecorvo và Franco Solinas cho bộ phim.

Yacef tự viết về đề tài, mà không có sự trao đổi nào với đoàn làm phim[8] và nhóm đoàn làm phim người Ý cho rằng nó quá thiên vị người Algérie. Dù cảm thông với người Algérie, đoàn làm phim Ý cho rằng họ làm phim theo sự trung lập, với lý do Ý không tham gia vào cuộc chiến này. Cảnh quay cuối của phim lấy một nhân vật người Algérie và đề cập sự thống khổ mà cả người Pháp lẫn Algérie phải chịu đựng[9].

 
Casbah, nơi cảnh quay chủ yếu xuất hiện

Mặc dù phần đông là các sự kiện chân thực, phim có thay đổi tên của một loạt nhân vật. Chẳng hạn, Đại tá Mathieu là sự kết hợp của một số sĩ quan Pháp chống khủng bố bấy giờ, trong đó nổi bật là giống với Jacques Massu[10]. Yacef cho rằng nhân vật này giống với Marcel Bigeard mặc dù cũng có người cho rằng nhân vật này giống với Roger Trinquier[11]. Solinas bị cáo buộc là đã lãng mạn hóa nhân vật này, nhưng ông bác bỏ và cho rằng nhân vật có nét văn hóa và thanh lịch, điều mà không dễ tìm kiếm ở các nước phương Tây[12].

Phong cách trong phim

Pontecorvo và nhiếp ảnh gia Marcello Gatti để phim đen trắng để khắc họa tính chân thực của phim. Nó thành công đến nỗi khi cho công chiếu ở Hoa Kỳ, nhièu người nói rằng không thể "mất một chân" vào hình ảnh khắc họa[13].

Pontecorvo cũng sử dụng cả thủ pháp hư cấu chân thực để "có thể khắc họa sâu và toàn diện về với các khán giả". Phim cũng sử dụng các thủ pháp truyền hình chân thực đến mức muốn xem. Một trong những thủ pháp đó bao gồm việc phim, tưởng như được tường thuật bởi chính các phóng viên phương Tây, khi có cả điện thoại và máy quay, song cũng cùng lúc đó ngầm ngầm khắc họa sự tranh chấp giữa lính Pháp với đám đông người Algérie trong một khoảng cách an toàn giữa máy quay và máy ảnh[14].

Diễn viên

Pontecorvo khá chọn lọc khi sử dụng cả những người không phải là từ Algérie và cả những người không chuyên để khắc họa cho phim (và nó để lại kết quả với rất nhiều dòng dài liên tục)[15]. Jean Martin là một trong số hiếm những diễn viên chuyên nghiệp trong phim, thủ vai Đại tá Mathieu. Martin vốn từng tham chiến trong Chiến tranh Đông Dương với tư cách lính dù và đã từng bị buộc thôi việc tại Nhà hát Nhân dân Quốc gia vì đã ký bản ghi nhớ 121 phản đối Pháp tiếp tục cuộc chiến Algérie. Ngay bản thân Pontecorvo cũng khá dè dặt với Martin khi nghi ngờ khả năng diễn xuất của anh không khác những diễn viên không chuyên, và thường hay có tranh cãi với nhau[16].

Nhạc phim

Nhạc phim được sử dụng một cách triệt để, từ trống, kèn, và chủ yếu được sử dụng nhiều bởi chính cả các cô gái thuộc FLN, và cùng với đó là cảnh bắn súng, đánh bom, gào thét. Pontecorvo đã đề nghị Morricone để tạo nhạc nền với ông[17].

Nguồn

  1. ^ “Slow Looking: The Ethics and Politics of Aesthetics: Jill Bennett, Empathic Vision: Affect, Trauma, and Contemporary Art (Stanford, CA: Stanford University Press, 2005) Mark Reinhardt, Holly Edwards, and Erina Duganne, Beautiful Suffering: Photography and the Traffic in Pain (Chicago, IL: University of Chicago Press, 2007) Gillo Pontecorvo, director, The Battle of Algiers (Criterion: Special Three-Disc Edition, 2004)”. sagepub.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  2. ^ “Critics' top 100”. bfi.org.uk. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  3. ^ “The 500 Greatest Movies Of All Time”. Empire. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  4. ^ "The Illegitimate Legitimacy of the Battle of Algiers in French Film Culture", Patricia Caillé, Interventions: International Journal of Postcolonial Studies Volume 9, Issue 3, 2007 Special Issue: Gillo Pontecorvo's Battle of Algiers, 40 Years On
  5. ^ Benjamin Stora, Les Mots de la Guerre d'Algérie, Presses Universitaires du Mirail, 2005, p. 20.
  6. ^ “Slow Looking: The Ethics and Politics of Aesthetics: Jill Bennett, Empathic Vision: Affect, Trauma, and Contemporary Art (Stanford, CA: Stanford University Press, 2005) Mark Reinhardt, Holly Edwards, and Erina Duganne, Beautiful Suffering: Photography and the Traffic in Pain (Chicago, IL: University of Chicago Press, 2007) Gillo Pontecorvo, director, The Battle of Algiers (Criterion: Special Three-Disc Edition, 2004)”. sagepub.com. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  7. ^ "The Source". The Battle of Algiers booklet accompanying the Criterion Collection DVD release, p. 14.
  8. ^ The Battle of Algiers booklet accompanying the Criterion Collection DVD release, p. 14.
  9. ^ Peter Matthews, "The Battle of Algiers: Bombs and Boomerangs", in The Battle of Algiers booklet accompanying the Criterion Collection DVD release, p. 7.
  10. ^ Arun Kapil, "Selected Biographies of Participants in the French-Algerian War", in The Battle of Algiers booklet accompanying the Criterion Collection DVD release, p. 50.
  11. ^ “Cinquantenaire de l'insurrection algérienne La Bataille d'Alger, une leçon de l'histoire”. Rfi.fr. 29 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2010.
  12. ^ PierNico Solinas, "An Interview with Franco Solinas", in The Battle of Algiers booklet accompanying the Criterion Collection DVD release, p. 32.
  13. ^ J. David Slocum, Terrorism, Media, Liberation. Rutgers University Press, 2005, p. 25.
  14. ^ Barr Burlin, Lyrical Contact Zones: Cinematic Representation and the Transformation of the Exotic. Cornell University Press, 1999, p 158.
  15. ^ Peter Matthews, "The Battle of Algiers: Bombs and Boomerangs", p. 8.
  16. ^ PierNico Solinas, "An Interview with Franco Solinas", in The Battle of Algiers booklet accompanying the Criterion Collection DVD
  17. ^ Mellen, Joan (1973). Film Guide to The Battle Algiers, p. 13. Indiana University Press. ISBN 978-0-253-29316-9.

Xem thêm