Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Cảnh (Nam Đường)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
S7w4j9 (thảo luận | đóng góp)
S7w4j9 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 86:
Trong khi đó láng giềng phía tây của [[Nam Đường]] là [[Sở (Thập quốc)|Sở]] cũng rơi vào nội chiến, giữa hai anh em [[Mã Hi Quảng]] và [[Mã Hy Ngạc]]. [[Mã Hy Ngạc]] bất bình vì việc anh mình là [[Mã Hy Phạm]] nhường ngôi cho [[Mã Hy Quảng]] trong khi mình mới là người lớn tuổi hơn, tiến hành nổi loạn năm [[949]] và tiến chiếm Vũ Bình<ref>武平, trị sở nay thuộc [[Thường Đức]], [[Hồ Nam]], [[Trung Quốc]]</ref>, độc lập với phần còn lại của Sở quốc.<ref name=ZZTJ288/> Mùa xuân [[950]] [[Mã Hy Ngạc]] bất bình với hoàng đế [[Hậu Hán]], vì thế cự tuyệt qua lại, sai sứ dâng biểu xưng thần [[Nam Đường]]. Cuối năm đó, [[Mã Hy Ngạc]] chiếm được quốc đô nước Sở là Đàm châu<ref>潭州, nay thuộc [[Trường Sa]], [[Hồ Nam]], [[Trung Quốc]]</ref>, giết [[Mã Hy Quảng]], tự xưng là Sở vương.<ref name=ZZTJ289/> Ông ta tiếp tục xưng thần với Nam Đường, và gửi [[Lưu Quang Phụ]] đến [[Nam Đường]]. Đáp lại, Lý Cảnh cử [[Tôn Thịnh (Nam Đường)|Tôn Thịnh]] và [[Diêu Phụng]] đến Đàm châu tấn phong [[Mã Hy Ngạc]] làm Sở vương. Tuy nhiên, [[Lưu Quang Phụ]] lại khuyên Lý Cảnh rằng Sở quốc suy yếu, trọng binh trấn giữ không được bao nhiêu. Lý Cảnh sai [[Biên Hạo]] ở Viên châu<ref>袁州, nay thuộc [[Nghi Xuân (Giang Tây)|Nghi Xuân]], [[Giang Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>, chờ thời cơ đánh Sở. Không lâu sau đó, quan ở Vũ Bình là [[Vương Quỳ]] và [[Chu Hành Phùng]] vì bất mãn với [[Mã Hy Ngạc]] bèn trốn khỏi Đàm châu đến thủ phủ Vũ Bình là Lãng châu và chiếm giữ nơi này, phế lưu hậu [[Mã Quang Tán]] (con [[Mã Hy Ngạc]]) và lấy trưởng tôn của [[Mã Ân]] là [[Mã Quang Huệ]] lên thay, nhưng chiếm giữ hết mọi quyền hành. Mã Hy Ngạc trình bày việc với Lý Cảnh, Lý Cảnh cử sứ đến Vũ Bình chiêu dụ, hi vọng bọn họ thần phục mình. Tuy nhiên bọn [[Vương Quỳ]] lấy hết lễ tặng, mà đuổi sứ giả. Sau đó lại đổi tôn [[Lưu Ngôn (Sở)|Lưu Ngôn]] làm Tiết độ sứ Vũ Bình, [[Lưu Ngôn]] sai sứ yêu cầu công nhận, Lý Cảnh không đáp. Do đó, [[Lưu Ngôn]] xưng thần với [[Hậu Chu]] (do [[Quách Uy]] dựng lên, là triều tiếp sau [[Hậu Hán]]).<ref name=ZZTJ290>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷290|quyển 290]].</ref>
 
Sau khi vào Đàm châu, Mã Hy Ngạc tối ngày rượu chè bê tha, không quan tâm gì đến việc nước cả. Mùa thu [[951]], tướng lại Đàm châu nổi loạn, trục xuất Hi Ngạc. Em trai là [[Mã Hy Sùng]] lên thay nắm quyền. [[Mã Hy Sùng]] đày [[Mã Hy Ngạc]] đến Hành Sơn<ref>衡山, nay thuộc [[Hành Dương]], [[Hồ Nam]], [[Trung Quốc]]</ref>, hi vọng rằng tướng áp giải [[Bành Sư Cảo]], người trước kia theo [[Mã Hi Quảng]] nên bị [[Mã Hy Ngạc]] phạt nặng, sẽ giết Hi Ngạc để báo thù. Tuy nhiên Sư Cảo không theo, vẫn áp giải Hi Ngạc tới nơi an toàn. Nghe tin về cuộc biến động, [[Lưu Ngôn]] đem quân đội đánh vào Đàm, [[Mã Hy Sùng]] rất sợ hãi. Theo yêu sách của [[Lưu Ngôn]], [[Mã HiHy Sùng]] xử tử rất nhiều quan laị ủng hộ [[Mã HiHy Ngạc]]], song [[Lưu Ngôn]] vẫn tiếp tục hạch sách. Với việc một lúc phải đương đầu với cả hai phía, thủ hạ của [[Mã HiHy Sùng]] còn muốn ám sát ông ta. [[Mã HiHy Sùng]] sợ hãi, cử [[Phạm Thủ Mục]] đến triều đình [[Nam Đường]], xin dâng đất quy phụ. Lý Cảnh sai [[Biên Hạo]] đến Đàm châu nhận hàng, kết thúc thời kì trị vì của họ Mã ở Sở quốc. Vì dân Sở gặp phải nạn đói do chiến tranh liên minh, [[Biên Hạo]] phân phát của cải trong ngân khố của họ Mã cho dân chúng, khiến người Sở rất bằng lòng. Sau đó, khi [[Mã HiHy Ngạc]] xin được phục chức Tiết độ sứ Vũ An (trị sở là Đàm châu), người dân ở đât ghét [[Mã HiHy Ngạc]] vì những hành động trước đây, thỉnh cầu để cho [[Biên Hạo]] làm Tiết độ sứ, Lý Cảnh đồng ý. Lý Cảnh cho phép [[Mã Hi Ngạc]] tiếp tục là Sở vương, nhưng dời đến Trấn Nam<ref>鎮南, trị sở nay thuộc [[Nam Xương]], [[Giang Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>. Về [[Mã Hi Sùng]], thì được ban những chức vụ nhỏ hơn, cùng với các quan nước Sở bị chuyển đi xa lãnh thổ cũ.<ref name=ZZTJ290/>
 
Chiếm được Đàm châu nhưng không có nghĩa là toàn bộ Sở quốc đều là của Nam Đường — trong khi họ chiếm giữ được Vũ An quân, thì Vũ Bình quân nằm trong tay [[Lưu Ngôn]], còn trọng trấn nữa là Tĩnh Giang quân<ref>靜江, trị sở nay thuộc [[Quế Lâm]], [[Quảng Tây]], [[Trung Quốc]]</ref>, rơi vào tay [[Nam Hán]]. Lý Cảnh chuẩn bị đem quân thu phục Vũ An và Tĩnh Giang, nhưng trước mùa hạ năm [[952]], triều đình nghị định từ bỏ chiến dịch Tĩnh Giang và cho phép [[Lưu Ngôn]] xưng thần chứ không tiêu diệt toàn bộ. Khi ông bàn bạc với [[Tôn Thịnh]] và [[Phùng Diên Kì]], những người đang chấp chính khi đó, [[Tôn Thịnh]] bằng lòng, nhưng [[Phùng Diên Kì]] phản đối, cho rằng như vậy sẽ khiến cho việc dồn quân đánh Sở thì không nên công cán gì. Tuy nhiên, cuộc tấn công vào thủ phủ Tĩnh Giang là Quế châu đã bị thất bại nặng nề trước quân [[Nam Hán]].<ref name=ZZTJ290/> Trong khi đó, [[Biên Hạo]], được cho là quá nhân từ, không đủ uy phong khi quản lí Vũ An, không kiểm soát được các tướng sĩ dưới quyền khiến họ can thiệp đến công việc của mình. Mùa đông [[952]], [[Lưu Ngôn]] sai [[Vương Quỳ]] dẫn quân đánh vào Đàm châu. Sau khi [[Biên Hạo]] cố thủ được một thời gian thì bỏ thành mà chạy về lãnh thổ [[Nam Đường]]. Các quan tướng cũ của nước Sở nghe tin Đàm châu thất thủ đều bỏ châu quận, khiến [[Lưu Ngôn]] khôi phục gần như toàn bộ lãnh thổ nước Sở ở phía bắc [[Núi Nam Lĩnh]] (và Tĩnh Giang). [[Nam Đường]], trong thực tế, không giành được gì từ cuộc xâm lăng nước Sở. [[Tôn Thịnh]] và [[Phùng Diên Kì]] đều từ chức, và Lý Cảnh nhấn mạnh rằng ông sẽ không bao giờ động binh nữa.<ref name=ZZTJ291>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷291|quyển 291]].</ref> Tuy nhiên, năm [[955]], khi Thục chúa [[Mạnh Sưởng]] cử sứ giả đến đề nghị lập liên minh ba bên gồm Hậu Thục - Bắc Hán - Nam Đường, ông lại đồng ý, mặc dù không có hành động quân sự nào thực sự diễn ra trong liên minh này.<ref name=ZZTJ292>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷292|quyển 292]].</ref>