Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Hữu Trang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Zasawa (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Zasawa (thảo luận | đóng góp)
Dòng 23:
[[Thập niên 1930]], ông nổi tiếng với hàng loạt sáng tác như ''[[Tô Ánh Nguyệt]]'' ([[1934]]), ''[[Lan và Điệp]]'' ([[1936]]), nhất là'' [[Đời cô Lựu]]'' ([[1937]]). Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu. Những sáng tác sau đó ''Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy''... hay ''Khi người điên biết yêu'' - cộng tác với [[Năm Châu]], [[Lê Hoài Nở]] - tiếp tục gây tiếng vang lớn.
 
Sau [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng tháng 8]], ông hăng hái tham gia kháng chiến, làm Chủ tịch ủy ban kháng chiến xã Phú Kiết. Năm [[1947]], ông trở lại hoạt động tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]. Năm [[1954]], ông lại hoạt động trong phong trào hoàhòa bình Sài Gòn - [[Chợ Lớn]]. Năm [[1960]], ông tham gia UỷỦy ban Trung ương [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam|Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam]] và được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Ông mất vào ngày [[1 tháng 10]] năm [[1966]], tại suối Cây vùng [[Sa Mát]] trong một trận bom oanh tạc của [[Hoa Kỳ|Mỹ]].
 
Trần Hữu Trang đã được [[Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Nhà nước]] truy tặng [[Huân chương Thành đồng]] và [[Giải thưởng Hồ Chí Minh]] về văn học nghệ thuật [[Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I|đợt 1]] ([[1996]]). Tên ông còn được đặt tên cho một con đường, một [[Trường học|ngôi trường]][[Thành phố Hồ Chí Minh]]. Tên của ông còn được đặt cho tên [[Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang]] và [[giảiGiải thưởng Trần Hữu Trang]] - một giải thưởng lớn trong lĩnh vực cải lương.
 
== Sự nghiệp sáng tác ==
Ông khởi đầu bằng kịch bản ''Lửa đỏ lòng son'' năm [[1928]], tiếp theo đó là vở ''Tâm hồn nghệ sĩ.'' Những sáng tác này tuy còn nhiều non nớt nhưng đã có sự mới mẻ về hình thức lẫn nội dung, đặc biệt đưa cuộc sống đương thời vào trong sân khấu cải lương.
 
Thời kì thập niên [[1930]], tài năng [[nghệ thuật]] của ông đã đạt được nhiều thành tựu. Những vở như ''Đời cô Lựu'', ''Tô Ánh Nguyệt'' hay ''Lan và Điệp'' không chỉ thành công ăn khách mà còn là những sáng tác xuất sắc của sân khấu cải lương trước [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng]]. Những sáng tác của Trần Hữu Trang không thiên về [[tình yêu]] đôi lứa uớt át hay cảm hứng [[lãng mạn]] mà xoáy sâu trực diện vào hiện thực xã hội. Những sáng tác này đã phơi bày số phận những người dân bất hạnh hay đề cập đến những [[bi kịch]] của tình yêu và [[hôn nhân]] trong hoàn cảnh [[xã hội]] đương thời, do đó nó "''thấm đượm giá trị tố cáo, vạch trần những tệ nạn và sự thối nát của xã hội thuộc địa, lên tiếng bênh vực những khát vọng giải phóng con người thoát khỏi mọi dây trói của lễ giáo, hủ tục, cũng như những bất công ngang trái''" <ref>[http://www.danangpt.com.vn/home/vanhoa/detail.php?id=110&a=78&k=104 Trần Hữu Trang - Nghệ sĩ cải lương của cách mạng], trang tỉnh Đà Nẵng. Truy cập 2008-19-10.</ref>. Với gần 30 kịch bản mang nội dung tư tưởng tiến bộ và giá trị nhân văn sâu sắc, Trần Hữu Trang là một trong những soạn giả lớn của nghệ thuật cải lương Nam Bộ.
 
Sau [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng tháng 8]], do hoàn cảnh công việc nên ông không sáng tác nhiều. Năm [[1946]], ông cho ra vở ''Hậu chiến trường'' và 20 năm sau, ông mới bắt tay viết kịch bản mới về người chiến sĩ cách mạng [[Nguyễn Văn Trỗi]]. Thế nhưng kịch bản đã không thể hoàn thành được.
Dòng 38:
* [[Lan và Điệp]] (1936)
* [[Đời cô Lựu]] (1937)
* ''Tìm hạnh phúc''
* ''Mộng hoa vương''
* ''Chị chồng tôi''
* ''Tình lụy''
* ''Khi người điên biết yêu'' (cùng với [[Năm Châu]], [[Lê Hoài Nở]])
* ''Hậu chiến trường'' ([[1946]])
 
== Xem thêm ==