Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cửa Tư Hiền”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
cần wiki hóa
Dòng 31:
Do phía nam đầm Thủy Tú hình thành nhiều còn cát cạn cản trở dòng chảy nên lũ lớn năm 1404 xé cồn cát ở Thuận an để thoát ra biển tạo thành cửa Thuận An. Như vậy, từ năm 1404 trở đi, Tam Giang - Cầu Hai có 2 cửa biển. Thuận An là cửa chính, Tư Hiền là cửa phụ (dựa vào khối lượng nước thoát ra biển), và dải đê cát ven biển lại cắt thành 2 như lúc mới hình thành.
 
Hệ đầm phá Tam Giang- Cầu Hai bao gồm: Phá Tam Giang, đầm Sam - An Truyền, đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú, đầm Cầu Hai.
 
Đầm Cầu Hai có diện tích lớn nhất, rộng 11.200 ha, hình bán nguyệt, vòng cung hướng về phía quốc lộ 11A, chỗ rộng nhất lên tới 6 km (Đá Bạc- Túy Vân), từ đầm Thủy Tú đến Vĩnh Phong (núi Rẫm) 11 km, từ cửa sông Đại Giang đến đèo Phước Tượng 17 km,  sâu trung bình từ 1 đến 1,5 m, có chỗ sâu nhất trên 2 m. Kể từ khi có có Thuận An (1404), Tư Hiền thành cửa phụ nên đầm Cầu Hai bị phù sa bồi  nông trung bình 1mm đến 1,4mm mỗi năm.
 
Trong đề tài nghiên cứu  hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai của 4 tác giả Trần Đức Thạnh, Nguyễn Hữu Cử, Nguyễn Chu Hồi, Nguyễn Văn Tiến công bố ở “Nghiên Cứu Huế Tập 3-2002” đã có sự nhầm lẫn nghiêm trọng trong cách gọi tên cửa biển Tư Hiền ở vị trí Vinh Hiền và Lộc Bình! Các tác giả ấy gọi một cửa là Tư Hiền, một cửa là Lộc Thủy. Tôi khẳng định , từ xa xưa cho đến nay, nước từ đầm Cầu Hai thoát ra biển không hề qua của biển nào có tên là của Lộc Thủy cả và nước từ đầm Cầu Hai không thể chảy qua trên địa phận xã Lộc thủy được để  goi nó là cửa Lộc Thủy. Một số thư tịch ghi “cửa biển sát mũi Chân Mây Tây, Lộc Thủy.” Cần hiểu rằng: Mũi Chân Mây Tây thuộc Lộc Thủy chứ không phải cửa biển nằm ở địa phận xã Lộc Thủy. Huyện Phú Lộc có 2 mũi Chân Mây. Chân Mây Đông là chỗ Cảng Chân Mây hiện nay.  Chân Mây Tây là nơi hiện nay có những công trình xây dựng của khu nghỉ dưỡng cao cấp nước ngoài đầu tư. Có ai tự gọi cửa biển ấy là cửa Vĩnh Phong đâu mặc dù có tư liệu cổ có ghi “ cửa biển gần núi Vĩnh Phong?” Vì cửa Tư Hiền luôn thay đổi vị trí, hai vị trí cách nhau khoảng 3km. Cửa Tư Hiền ở vị trí gần chân núi Phụ An ( núi Đồng Đò), dân địa phương gọi là cửa Mới .còn cửa Tư Hiền ở vị trí gần núi Vĩnh Phong, sát mũi Chân Mây Tây thì gọi là cửa Cũ. Vùng cửa Cũ trước thuộc xã Vinh Hiền, khi xã Lộc Bình thành lập (sau 1975) thì thuộc xã Lộc Bình. Vì lẽ đó, gần đây  có người tự gọi cửa Cũ ấy là cửa Lộc Bình! Trong các cách gọi trên thì gọi cửa Lộc Thủy là sai hoàn toàn, gọi cửa Lộc Bình là dựa vào tên địa phương có cửa biển mới dùng gần đây chưa phổ biến, gọi cửa Cũ là cách gọi dân gian phổ biến từ lâu đời. Vậy Thế nào là cũ, thế nào là mới,  vì  2 vị trí này thay nhau lấp mở nhiều lần!
 
Tôi tamtạm gọi cửa Tư Hiền ở vị trí phía trên, gần núi Phụ An (núi Đồng Đò) là cửa Tư Hiền trên; cửa Tư Hiền ở vị trí phía dưới, gần núi Vĩnh Phong, sát mũi Chân Mây Tây là cửa Tư Hiền dưới để tránh lẫn lộn, nhầm lẫn đối với người đọc.
 
- Thời còn thuộc ChămPaChăm Pa (1306 trở về trước), đầm Cầu Hai có tên là đầm Ô Long nên cửa biển có tên Ô Long hải khẩu. Trong kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ 2 (1284-1285), 10 vanvạn quân giặc do Toa Đô chỉ huy sau khi không khuất phục được Chiêm Thành đã lui quân vào cửa Ô Long đóng ở vùng đầm Ô Long để làm gọng kìm tấn công mặt nam Đại Việt, lúc Thoát Hoan đánh Đại Việt từ phía bắc.
 
- Khi thuộc về Đại Việt (từ 1306), đầm Cầu Hai có tên Nhi Hải. “ Nhi Hải hữu thần lãng, thần lãng phúc nhân chu”, nghĩa là Nhi Hải có sóng thần, sóng thần nhấn chìm thuyền của dân. Vì lẽ đó, đầm Cầu hai lúc bấy giờ còn được gọi là hồ Đại Lãng (hồ có sóng lớn). Dân địa phương gọi là sông Nhi. Với sự kiện Huyền Trân trên đường vào làm vợ vua Chiêm, theo đường biển vào cửa Ô Long, nghỉ lại tại đảo Mai Vàng (nay là cồn Mai sau trường tiểu học Hiền An), sau đó theo thủy đạo nội địa lên Huế rồi đi đường bộ vượt Hải Vân vào nam, cửa Ô Long được đổi thành Tư Dung (nhớ người con gái đẹp- Huyền Trân).
Dòng 55:
- Tháng 5 năm 1786 (Bính Ngọ), Nguyễn Huệ vào cửa Tư Dung, theo nội thủy lên đánh chiếm Phú Xuân, đuổi quân Trịnh chạy ra Bắc.  Sau đó, thủy quân Tây Sơn lại ra cửa Tư Dung theo đường biển tiến ra Bắc lần thứ nhất với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh để diệt nhà Trịnh.
 
- Sau khi đánh thắng quân Thanh đầu mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), Vua Quang Trung ngự già về Tư Dung thị sát trận địa để lập kế hoạch phòng thủ chung quanh Phú Xuân. Ngô Thì Nhậm được tòng giá. Bài “Phụng chế Tư Dung hải môn tức cảnh” trong tập Thu Cận Dương Ngôn của ông có nói đến việc nầy:  “ Thuyền“Thuyền ngự đến Tư Dung. Vua sai làm thơ tức cảnh…Cửa này có núi Long, núi Ngựa nhô ra ngoài biển…Dòng nước khuất khúc như hình chữ ất đổ ra biển”. Theo cách miêu tả ấy thì cửa Tư Dung mà vua Quang Trung về thị sát lúc ấy là cửa Tư Dung cũ, tức cửa dưới.
 
- Ngày 11/6/1801 nhằm ngày 1 tháng 5 năm Tân Dậu, Thủy quân Nguyễn Ánh do Lê Văn Duyệt và Lê Chất chỉ huy  tấn công 2 vạn quân Tây Sơn ở phòng tuyến Tư Dung - Linh Thái do phò mã Nguyễn Văn Trị chỉ huy. Quân  Nguyễn Ánh nhân đêm tối vượt bờ Hà Trung đánh bất ngờ, quân Tây Sơn thua, Nguyễn Văn Trị bị bắt sống ở Trường Hà.
Dòng 67:
Trước 1403 rất lâu cửa Ma Á và Thuận An cổ bị lấp thì cửa ở Vinh Hiền hình thành sát mũi Chân Mây Tây, lúc bấy giờ không rõ có tên là gì. Thời thuộc Chiêm Thành cửa nầy có tên Ô Long Hải Khẩu.  khi thuộc Đại Việt (1306) được đổi tên là Tư Dung. Thời nhà Mạc gọi là Tư Khách. Nhà Mạc sụp đổ cửa lại mang tên Tư Dung cho đến năm 1841 thì đổi thành Tư Hiền. Từ 1404 trở về sau,  cửa Tư Dung thường lấp mở và thay đổi vị trí. Khi thì sát mũi Chân Mây Tây, khi thì gần Núi Phụ An (núi Đồng Đò). Vì lẽ đó mà dân gian gọi là cửa cũ, cửa mới hoặc cửa dưới, cửa trên, sau nầy còn gọi cửa Đầm, cửa Lộc Bình để chỉ cửa phía dưới và cửa Tư Hiền để chỉ cửa trên. Trong sử sách, tư liệu người ta thường dùng tên Tư Dung hoặc Tư Hiền để gọi chung cho 2 cửa biển ở 2 vị trí khác nhau ấy. Để giúp người đọc xác định vị trí cửa biển  tôi xin mạo muội liệt kê  như sau:
 
Năm 1404  lũ lớn, xé bãi cát bờ biển ở Thuận An, mở lại cửa Thuận An. Khị có Thuận An thì Tư Dung dưới trở thành cửa phụ.
 
1467 (Đinh Hợi), Cửacửa Tư Dung dưới bị cạn được triều đình nhà Lê cho nạo vét, khơi sâu.
 
1733, cửa Tư Dung dưới bị hẹp, cạn  chúa Nguyễn Phúc Chu cho khơi sâu rộng và kè cửa biển.
Dòng 75:
Tháng 8/1811(Tân Mùi), bão lớn, nước phá bờ biển gần chân núi Phụ An mở thêm cửa Tư Dung trên (cửa mới) . Cửa Tư Dung dưới ( cửa cũ) cũng được mở rộng thêm 27 trượng, 5 thước; sâu 7 thước, nhưng năm sau lại bị bồi lấp cạn, hẹp như trước. Hình thành cùng lúc 2 cửa biển Tư Dung.
 
         1812, Tư Dung dưới thu hẹp và cạn dần
 
Tháng 5/1823 (Quý Mùi), Tư Dung dưới chỉ còn khe nước có thể lội qua.
Dòng 91:
1930 (Canh Ngọ), mưa dầm, lũ lớn mở rộng cửa Tư Hiền dưới.
 
1953 (Quý Tị), lũ rất lớn,  mở Tư Hiền trên. Cát lấp ngang đoạn sông từ cửa trên về cửa dưới chừng vài trăm mét, biến đoạn sông còn lại thành đầm nước lớn với chiều dài hơn 2 km2km, Tư Hiền dưới  thành con lạch nhỏ để nước trong đầm ấy chảy ra biển.
 
1978, Tư Hiền trên cạn, hẹp dần
 
1979, Tư Hiền trên bị lấp hẳn. Chính quyền huy động dân các xã thuộc huyện Phú Lộc  khai thông lại Tư Hiền dưới.
 
Tháng 8/1985, bão số 8 , Tư Hiền dưới mở rộng như trước 1982.
Dòng 101:
1990, cửa Tư Hiền trên mở.
 
1993 , cửa Tư Hiền trên can dần và tự lấp cạn vào năm 1994.
 
Tháng 10 năm 1999 (Kĩ Mão), cơn đại hồng thủy lịch sử mở lại cửa Tư Hiền trên rộng tới 500m. Lũ nầy cũng mở lại cửa Vinh Hải. Sau lũ người ta lấp bỏ cửa Vinh Hải.
 
2005, do hạn lâu ngày, cửa Tư Hiền trên  hẹp dần chỉ còn khoảng 160m.
Dòng 109:
Hiện nay (2015), cửa Tư Hiền trên vẫn tồn tại và là cửa thoát nước duy nhất của đầm Cầu Hai ra biển.
 
''Theo'' Ngô Văn Ánh khảo cứu - 2015.
 
==Xem thêm==