Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đền Karnak”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Longnb (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Longnb (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 40:
| designation1_date = 1979 ([[Ủy ban Di sản thế giới|kỳ họp]] thứ 3)
| designation1_number = [http://whc.unesco.org/en/list/87 87]
| designation1_free1name = Phân vùng
| designation1_free1value = [[Danh sách Di sản thế giới tại các Nhà nước Ả Rập|Nhà nước Ả Rập]]
}}
 
'''Quần thể đền Karnak''', thường gọi tắt là '''đền Karnak''', là một [[di tích]] nổi tiếng nằm ở thành phố [[Thebes, Ai Cập|Thebes]], kinh đô cũ của [[Ai Cập]]. Di tích này gồm nhiều tàn tích của những ngôi đền, những bức tượng khổng lồ, những sảnh thờ và những tòa tháp. Trước đây có tên gọi là ''Ipet-isut'' (tạm dịch: "Nơi được chọn")<ref>Blyth (2006), tr.9</ref>.
 
Việc xây dựng khu đền bắt đầu từ triều đại của vua [[Senusret I]] ([[Trung Vương quốc Ai Cập|Trung vương quốc]]). Mãi cho đến khi Ai Cập bị [[Ai Cập thuộc Hy Lạp|người Hy Lạp xâm lược]] thì ngôi đền vẫn được trùng tu và được xây dựng thêm<ref>Blyth (2006), tr.10</ref>. Ngày nay, quần thể đền Karnak nằm tọa lạc tại El-Karnak, thuộc tỉnh [[Luxor (tỉnh)|Luxor]], cách [[Luxor]] 2,5 km về phía bắc.
 
Thành phố cổ Thebes và các di tích khảo cổ tại đó đã được [[Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc|UNESCO]] công nhận là [[di sản thế giới]] vào năm 1979<ref>[http://whc.unesco.org/en/list/87/multiple=1&unique_number=93 Ancient Thebes with its Necropolis – UNESCO World Heritage Centre]</ref>.
Hàng 52 ⟶ 50:
== Tổng quan ==
[[Tập tin:Karnak Temple Map.jpg|trái|nhỏ|Sơ đồ toàn bộ khu vực Karnak]]
Trước thời kỳ [[Vương triều thứ Mười một của Ai Cập|Vương triều thứ 11]], không có nhiều công trình được xây dựng tại vùng đất [[Thebes, Ai Cập|Thebes]] này, có chăng là những ngôi đền thuộc cỡ nhỏ và không mấy quan trọng dành để thờ thần [[Montu]], vị thần chiến tranh của Thebes và nữ thần nguyên thủy [[Mut]]<ref name=":0">Blyth (2006), tr.7</ref>. Dưới triều đại thứ 11, [[Amun]] trở thành vị thần bảo hộ của Thebes thay cho Montu, dần dần kết hợp với vị thần mặt trời [[Thần Ra|Ra]], trở thành bộ đôi vị thần tối cao [[Amun]]-[[Thần Ra|Ra]]. Nữ thần Mut trở thành vợ của Amun, thần mặt trăng [[Khonsu]] là con của hai người, được xem là ''Bộ ba Theban''. Karnak từ đó trở thành vùng đất linh thiêng của các vị thần.
 
Một ngôi đền nhỏ xây theo hình [[bát giác]] là công trình được xây dựng sớm nhất có nhắc đến tên Amun-Ra. Ngôi đền này được xây dựng dưới thời vương triều thứ 11<ref name=":0" />. Nhà nguyện trắng của vua [[Senusret I]] và khu đền thờ Amun-Ra (1 trong 4 phần chính của quần thể đền Karnak) là những dấu tích sớm nhất của đền Karnak.
Hàng 65 ⟶ 63:
Sự mở rộng ngôi đền được diễn ra trong suốt vương triều này<ref name=":1">Strudwick & Strudwick (1999), tr.51</ref>. [[Amenhotep I]] đã cho xây dựng một nhà nguyện dành cho thần Amun bằng đá [[thạch cao]] tuyết hoa và một cổng [[đá vôi]] cao 20 cubit (gần 9m) ở phía nam của Karnak. [[Thutmosis I]] cho xây dựng tháp môn thứ tư, thứ năm và một bức tường vây quanh chúng. Ở giữa đó, ông cho xây một đại sảnh với các cột làm bằng gỗ [[Chi Tuyết tùng|tuyết tùng]]<ref name=":1" />.
 
Cũng như cha mình, [[Thutmosis II]] cũng cho dựng một cổng đá vôi và một ngay trước tháp môn thứ tư, nhưng cổng đá lại chưa được hoàn thiện. [[Amenhotep II]] lại cho phá hủy cái cổng này và thay vào đó là cho dựng tháp môn thứ 3<ref>Betsy Bryan (2000). "The 18th Dynasty before the Amarna Period". ''The Oxford History of Ancient Egypt''. Oxford University Press. tr.235-236</ref>.
[[Tập tin:1st Pylon Karnak Temple.JPG|nhỏ|Tháp môn thứ nhất]]
Nữ hoàng [[Hatshepsut]], cũng như cha và chồng bà, cũng cho người xây dựng những công trình tưởng niệm tại đây. Bà đã cho dựng hai cột tháp tưởng niệm, một tháp bị đổ, được cho là cao nhất thời đó và đã cho trùng tu lại đền thờ [[Mut]] vốn bị phá hủy bởi những người [[Hyksos]]<ref>Joyce Tyldesley, ''Hatchepsut: The Female pharaoh'', Penguin Books, 1998 paperback</ref>. Một [[Nhà nguyện đỏ]] và 2 cột tháp cũng được xây dựng để kỷ niệm năm thứ 16 làm vua của Hatshepsut. Một cột tháp đã bị vỡ, hiện còn nằm tại [[Aswan]], gọi là Tháp chưa hoàn thành<ref>Peter Tyson, [https://www.pbs.org/wgbh/nova/egypt/dispatches/990316.html ''The Unfinished Obelisk''], NOVA online adventure</ref>.
 
[[Thutmosis III]], con trai của [[Thutmosis II]], đã cho xây dựng [[Đại sảnh lễ hội]], được cho là "huy hoàng, lộng lẫy nhất trong những công trình tưởng niệm"<ref>[[:en:Festival_Hall_of_Thutmose_III|Festival Hall of Thutmose III]] (en.wiki)</ref>. Ông cũng cho xây thêm tháp môn thứ sáubảy (giữa tháp môn thứ tư và năm)<ref>Grimal, Nicolas. ''A History of Ancient Egypt.'' tr.303. Librairie Arthéme Fayard, 1988</ref> và tháp môn thứ bảysáu (bị phá hủy bởi Akhenaten, [[Tutankhamun]] cho phục dựng lại)<ref name=":2">Brand (1999), tr.34</ref>, tiếp tục hoàn thành tháp môn thứ tám (còn dở dang dưới triều Hatshepsut)<ref>Lipinska, Jadwiga. "Thutmose III," p.402. ''The Oxford Encyclopedia of Ancient Egypt.'' Ed. Donald Redford. Vol. 3, tr.401–403. Oxford University Press, 2001</ref> cùng nhiều công trình nhỏ khác. Tháp môn thứ sáu đã bị Horemheb chiếm đoạt bằng cách khắc hình ảnh và ghi tên của ông lên đó<ref name=":2" />. Các nhà nghiên cứu cho rằng, [[Thutmosis III]] cũng đã cho hủy hoại nhiều di tích của Hatshepsut, người mẹ kế của ông, do bà đã nắm quyền điều hành trong những năm đầu cai trị của ông<ref>Shaw, Ian, and Nicholson, Paul. ''The Dictionary of Ancient Egypt''. tr.120. Harry N. Abrams, Inc. ISBN 0-8109-9096-2 (1995)</ref>.
[[Tập tin:S10.08 Karnak, image 9922.jpg|trái|nhỏ|Cổng và một tháp môn tại đền Karnak]]
Sau một thời gian bị bỏ hoang dưới triều đại [[Amarna]] của vua [[Akhenaton|Akhenaten]], người theo chủ nghĩa "độc thần", chỉ thờ duy nhất thần mặt trời [[Aten]], việc tu bổ và xây dựng Karnak lại được thực hiện dưới thời [[Tutankhamun]] và [[Horemheb]]. Horemheb đã dựng tháp môn thứ hai, thứ chín và thứ mười. Tòa tháp thứ hai được xây vào những năm trị vì gần cuối của ông, về sau [[Ramesses I]] và [[Ramesses II|II]] lần lượt chiếm giữ, đề tên mình vào đó. Riêng tòa tháp thứ mười, ông đã dùng những viên gạch từ đống đổ nát của ngôi đền [[Akhenaton|Amenhotep IV]] để xây dựng nên nó.
 
=== Vương triều thứ 19 ===
Hai cha con [[Seti I]] và [[Ramesses II]] là người đã cho khởi công xây dựng [[Đại sảnh lớn Hypostyle|Đại sảnh Hypostyle]] với 134 cột đá trên diện tích 5.000 m<sup>2</sup>. Đây là công trình nổi bật nhất của quần thể đền Karnak<ref>[[:en:Great_Hypostyle_Hall|Great Hypostyle Hall]] (en.wiki)</ref>.
[[Tập tin:Egypt- (13).JPG|nhỏ|Nhà nguyện của [[Seti II]]]]
[[Merneptah]] đã cho khắc một bài văn xuôi ("[[Bản khắc lớn Karnak]]") trên bức tường phía đông của sảnh Cachette kỷ niệm chiến thắng của ông với đám [[hải nhân]]<ref>[[:en:Great_Karnak_Inscription|Great Karnak Inscription]] (en.wiki)</ref>. Đây là bản khắc dài nhất còn sót lại nhưng đã bị mất khoảng 1/3 nội dung. Con trai ông, [[Seti II]] đã cho dựng thêm hai cột tháp trước tháp môn thứ hai và xây thêm một nhà nguyện 3 cửa bằng [[Cát kết|sa thạch]] để thờ bộ ba Amun - Mut - Khonsu.
 
=== Vương triều thứ 20 ===
Sức mạnh của đế quốc Ai Cập suy giảm đã kéo theo việc xây dựng ít lại những công trình tại Thebes. Đền thờ thần [[Khonsu]] lại được xây dựng dưới thời [[Ramesses III]] và [[Ramesses IV|IV]]<ref>[[:en:Temple_of_Khonsu|Temple of Khonsu]] (en.wiki)</ref>. Các đời vua sau cũng chỉ tập trung vào việc tu sửa và xây thêm những kiến trúc tại đền Khonsu<ref>Strudwick & Strudwick (1999), tr.61</ref>.
 
=== Thời kỳ Chuyển tiếp thứ ba ===
Các vua thời này hầu như không có đóng góp gì nhiều cho Karnak, nhưng những Thầy [[tư tế]] cấp cao của [[Amun]] vẫn tiếp tục bàisửa trísang lại ngôi đền của Khonsu, điển hình là [[Herihor]] và [[Pinedjem I]]<ref name=":3">Strudwick & Strudwick (1999), tr.63</ref>.
 
Vua người [[Libya]], [[Shoshenq I]] đã cho kỷ niệm các cuộc chinh phạt và các chiến dịch quân sự của mình bằng cách xây dựng [[cổng Bubastite]] ở giữa tháp môn thứ hai và đền thờ [[Ramesses III]]. [[Taharqa]] là vị vua duy nhất xây dựng thêm nhiều công trình lớn tại Karnak, được gọi là "Những công trình lớn của Taharqa", nằm giữa tháp môn thứ nhất và thứ hai<ref name=":3" />.
 
=== Thời kỳ Hậu nguyên ===
Sự thay đổi cuối cùng của kiến trúc quần thể Karnak là bổ sung thên tháp môn thứ nhất và xây thêm những bức tường bao quanh toàn bộ Karnak, đều được vua [[Nectanebo I]] của [[Vương triều thứ Ba mươi của Ai Cập|triều đại thứ 30]]. Tuy nhiên tháp môn thứ nhất vẫn chưa được xây xong. Từ năm 323 TCN trở về sau, đền Karnak gần như rơi vào tình trạng bỏ hoang<ref>Strudwick & Strudwick (1999), tr.64</ref>.
 
== Các khu vực chính ==
Hàng 94 ⟶ 92:
{{wide image|Karnakpanorama.jpg|800px|Những cột đá thuộc Đại sảnh Hypostyle}}{{wide image|Temple-Karnak.jpg|800px|Bên trong Đại sảnh Hypostyle}}
[[Tập tin:KarnakTemple@LuxorEgypt rams 2007feb9-08 byDanielCsorfoly.JPG|trái|nhỏ|Dãy hành lang nhân sư đầu cừu, hiện thân của [[Amun]]]]
Đây là khu vực rộng lớn nhất trong khu phức hợp đền Karnak, được dành để thờ bộ đôi vị thần quan trọng [[Amun]] và [[Thần Ra|Ra]]. Khu vực này chiếm khoảng 250.000 m<sup>2</sup>. Những cái cột khổng lồ bằng [[Cát kết|sa thạch]] này, nguyên liệu của chúng được lấy từ vùng [[Gebel Silsila]] cách đó 100 dặm về phía nam [[Sông Nin|sông Nile]]<ref>Time Life Lost Civilizations series: Ramses II: Magnificence on the Nile (1993) tr.53–54</ref>. Một bút tháp cao khoảng 29m (trước đây là 32.18m), nặng khoảng 330 tấn, được xem là cao và nặng trong tất cả các cột tháp tại đây, là tháp Lateran của [[Thutmosis III|Thutmose III]], hiện đang ở [[Roma|Rome]], thủ đô của [[Ý]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ancient-wisdom.com/menhirs.htm|title=Menhirs, Obelisks and Standing Stones}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://www.pbs.org/wgbh/nova/egypt/raising/rome.html|title=PBS:NOVA:A World of Obelisks-Rome}}</ref>. Nhiều phần trong ngôi đền không cho phép du khách tham quan vì nơi đó đang được khai quật hoặc đang phục hồi, điển hình là ba tháp môn thứ 8, 9, 10. Những công trình và di tích trong khu vực này bao gồm:
* 10 tháp môn được xây dựng và tu sửa bởi các vương triều.
* Hai dãy hành lang [[nhân sư]] đầu cừu. Vì việc xây dựng tháp thứ nhất của vua [[Nectanebo I]] nên hai dãy tượng nhân sư bị dời đi. Chỗ chúng đứng chính là lối vào cổng tháp môn thứ hai ngày nay.
* Tiền sảnh lớn giữa tháp môn thứ nhất và thứ hai.
* Sảnh Cachette (sảnh thứ nhất). Nơi đây đã chôn hơn 900 bức tượng và được phát hiện bởi [[Georges Legrain]] năm 1903<ref>[http://www.ifao.egnet.net/bases/cachette/about "Karnak Cachette and G. Legrain's "K" numbers"]. French Institute of Oriental Archaeology - Cairo.</ref><ref>Wilkinson, Richard H. (2000). ''The Complete Temples of Ancient Egypt''. Thames & Hudson. tr.64</ref>. Ngoài ra còn ba sảnh nhỏ nữa.
* Cổng Bubastite của vua [[Shoshenq I]]<ref>[[:en:Bubastite_Portal|Bubastite Portal]] (en.wiki)</ref>.
* Đại sảnh Hypostyle của [[Seti I]] và [[Ramesses II]].
* Đại sảnh lễ hội của [[Thutmosis III|Thutmose III]].
Hàng 110 ⟶ 108:
* Đền thờ thần [[Khonsu]].
* Đền lễ hội Opet - nơi đăng quang của pharaoh và là nơi tổ chức lễ rước tượng của Bộ ba Theban.
Ngoài ra còn một khu bảo tàng ngoài trời<ref>[[:en:Karnak_Open_Air_Museum|Karnak Open Air Museum]] (en.wiki)</ref> là nơi tái thiết những di tích đã bị phá hủy hoặc bị chôn vùi trước đây:
* Nhà nguyện đỏ của nữ hoàng [[Hatshepsut]], bị [[Thutmosis III|Thutmose III]] đập phá.
* Nhà nguyện trắng của vua [[Senusret I]].
* Ngôi đền bằng đá [[canxit]] của [[Amenhotep II]].
Hàng 117 ⟶ 115:
=== Đền Mut ===
[[Tập tin:Karnak Ramses III temple.JPG|trái|nhỏ|Lối vào chính của đền thờ [[Ramesses III]]]]
[[Thutmosis II|Thutmose II]] và [[Thutmosis III|III]] là người đã cho xây dựng khu đền này. Khu vực này chiếm khoảng 90.000 m<sup>2</sup>, nằm ở phía nam của quần thể Karnak. Có ít nhất 6 ngôi đền được tìm thấy tại đây<ref>[https://www.brooklynmuseum.org/features/mut/][http://www.brooklynmuseum.org/features/mut/ The Precinct Of Mut, Queen Of The Gods, Karnak, Egypt (Brooklyn Museum)]</ref>.
* Đền chính của nữ thần [[Mut]] và một hồ nước thiêng.
* Đền Contra, không rõ mục đích của ngôi đền này. Nhà nghiên cứu [[Fazzini]] nghĩ rằng đây có thể là một nơi dừng chân trước khi đi qua đền Mut<ref>Fazzini, R. A., & Peck, W.H.. (1983). ''Excavating the Temple of Mut. Archaeology'', 36(2), 16 23.</ref>.
* Đền A ở góc đông bắc, thờ [[Ramesses II]] và Amun-Ra. Có hai tấm bia đá được phát hiện. Một tấm đề cập đến công việc xây dựng đền A của [[Ramesses II]] và tấm còn lại nói về cuộc hôn nhân của ông với công chúa người [[Người Hittite|Hittite]].
* Đền B ở phía đông, bị hư hại nặng nhất.
Hàng 125 ⟶ 123:
* Đền D được cất dựng bởi [[nhà Ptolemaios]] khi họ cai trị Ai Cập. Đền D chia làm 2 phòng: phòng trước để thờ Mut và phòng sau thờ tổ tiên của họ.
* Hồ thiêng Isheru.
* Rất nhiều bức tượng của nữ thần sư tử [[Sekhmet]] bằng [[Đá hoa cương|đá granite đen]] dưới thời [[Amenhotep III]] được lưu giữ tại nhiều bảo tàng trên thế giới<ref>Lythgoe, A. M. (1919). Statues of the Goddess Sekhmet. [[Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan|Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan]], 14(10), 3–23</ref>.
* 42 bức tượng nữ bằng gốm sứ được tìm thấy ở phía nam hồ thiêng.
[[Tập tin:Temple of amun karnak.jpg|nhỏ|Sơ đồ khu vực đền Amun-Re]]
Hàng 138 ⟶ 136:
=== Đền Amenhotep IV ===
Amenhotep IV hay [[Akhenaton]], vị vua theo "thuyết độc thần", cũng đã dựng cho mình một ngôi đền lớn bên trong phạm vi của phía đông Karnak, bên ngoài tường thành của khu vực Amun-Re. Ngôi đền đã bị phá hủy gần như là hoàn toàn bởi các vua đời sau. Việc xác định bài trí của ngôi đền gần như là không thể, một số ít tòa nhà nhỏ vẫn còn sót lại.
* '''Gempaaten''': Những bức tượng bằng đá hoa cương đỏ và sa thạch của Akhenaten; một bức tượng nhân sư có ghi tên thần Aten được tìm thấy tại đây. Ngôi đền này đã bị hủy hoại hoàn toàn, những tàn tích còn sót lại cũng không chứa nhiều thông tin<ref>Blyth (2006), tr.121</ref>.
* '''Hwt benben''': Nằm phía đông Karnak, dùng để thờ mặt trời, có liên quan đến đền Gempateen<ref>Blyth (2006), tr.123</ref>.
* '''Teni-menu''': Gồm nhiều phòng, có thể là phòng kho, hoặc là nơi ở của gia đình hoàng gia, mặc dù không có bằng chứng cho điều này. Những bức tường của Teni-menu được dùng để xây tường tháp môn thứ chín<ref>Thomas, Susanna. ''Akhenaten and Tutankhamen: the religious revolution''. tr.41</ref>.
 
== Xem thêm ==
* Blyth, Elizabeth (2006). ''Karnak: Evolution of a Temple''. Oxford: Routledge. ISBN 0-415-40487-8.
* Strudwick, Nigel & Helen (1999). ''Thebes in Egypt: A Guide to the Tombs and Temples of Ancient Luxor''. Ithaca, New York. ISBN 0-8014-8616-5.
* Brand, Peter J. ''Secondary Restorations in the Post-Amarna Period''. Journal of the American Research Center in Egypt 36 (1999).
 
=== Liên kết ngoài ===
* [[:en:Precinct_of_Amun-Re|Precinct of Amun-Re]] (en.wiki)
* [[:en:Precinct_of_Mut|Precinct of Mut]]
* [[:en:Precinct_of_Montu|Precinct of Montu]]
* [[:en:Temple_of_Amenhotep_IV#cite_note-Thomasp41-1|Temple of Amenhotep IV]]
 
== Chú thích ==