Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Mạnh (Trung tướng Việt Nam Cộng hòa)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Quân đội Quốc gia Việt Nam: replaced: uơng → ương using AWB
n clean up, replaced: Đệ nhất → đệ Nhất, đệ Nhất → Đệ Nhất, ệ nhị → ệ Nhị (2) using AWB
Dòng 26:
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Giữa năm 1952, Quân đội Quốc gia Việt Nam thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông chính thức chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Quốc gia. Đầu năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử theo học khóa 1 Biệt kích tại Trung tâm Huấn luyện Biệt Động đội tại Vạt Cháy (Bãi Cháy), Hòn Gai, [[Quảng Yên]].<ref>Nay là khu vực Phường Bãi Cháy, Thành phố Hạ Long, Trung tâm tỉnh [[Quảng Ninh]]</ref> Sau khi mãn khóa học, ông được cử làm Chánh Văn phòng cho Đại tá [[Trương Văn Xương (Đại tá, Quân lực VNCH)|Trương Văn Xương]] Tư lệnh Đệ Nhị Quân khu Trung Việt.<ref>Đại tá Xương, nguyên là sĩ quan cao cấp của Giáo phái Cao Đài, chuyển qua phục vụ Quân đội Quốc gia, được đồng hóa cấp bậc Đại tá.</ref> Giữa năm 1954, ông được thăng cấp [[Đại úy]] chuyển nhiệm vụ Trưởng phòng 3 Đệ nhịNhị Quân khu Trung Việt vẫn do Đại tá Xương làm Tư lệnh.
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Tháng 3 năm 1955, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] chuyển về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Trưởng phòng 3. cuối tháng tháng 10 cùng năm, Thủ tướng Diệm đổi tên Quân đội Quốc gia thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được sát nhập sang phục vụ cơ cấu quân đội mới và vẫn giữ nguyên chức vụ cũ. Tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp [[Trung tá]] chuyển ra Cao nguyên Trung phần giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn II<ref>Quân đoàn II được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1958 tại Ban Mê Thuột, ban đầu đặt bản doanh tại đây, về sau di chuyển lên Pleiku.</ref> thay thế Trung tá [[Trang Văn Chính (Đại tá, Quân lực VNCH)|Trang Văn Chính]].<ref>Sinh năm 1925 tại Trà Vinh, tốt nghiệp trường Sĩ quan Nước Ngọt Vũng Tàu, sau cùng là Đại tá Cục trưởng Cục An Ninh Quân đội.</ref> Tháng 5 năm 1959, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn II lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Sau đó ông được chuyển về tùng sự ở Khối Quân huấn tại Bộ Tổng Tham mưu. Ngày Quốc khánh Đệ nhấtNhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm. Tháng 1 năm 1962, ông được cử làm Chánh chủ khảo kỳ thi mãn khóa 2 Nhân vị Sĩ quan Hiện dịch Đặc biệt tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang. Khóa 2 Nhân vị Sĩ quan Đặc biệt hiện dịch Nha Trang, khai giảng ngày 27 tháng 2 năm 1961, mãn khóa ngày 31 tháng 1 năm 1962. Tốt nghiệp khóa này, về sau có nhiều sĩ quan cấp tá chỉ huy xuất sắc, tiêu biểu là Đại tá [[Hồ Ngọc Cẩn]], chức vụ sau cùng là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện.</ref>
 
Tháng 2 năm 1964, sau [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964]] của tướng [[Nguyễn Khánh]], ông được điều đi giữ chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn III & Vùng 3 Chiến Thuật. Đầu Tháng 10 cùng năm, bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Trung tá [[Đồng Văn Khuyên]]<ref>Trung tá [[Đồng Văn Khuyên]] (SN 1927, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K1, sau cùng là Tổng tham mưu phó kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận.</ref>
 
Tháng 5 năm 1965, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh đầu tiên Sư đoàn 10 Bộ binh<ref>Sư đoàn 10 Bộ binh được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1965 tại Long Khánh, đầu năm 1967 đổi tên thành Sư đoàn 18 Bộ binh.</ref> tân lập tại Xuân Lộc, Long Khánh. Ba tháng sau, ngày 20 tháng 8, ông chuyển ra Cao nguyên Trung phần giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, (hoán chuyển nhiệm vụ với Chuẩn tướng [[Lữ Mộng Lan|Lữ Lan]] về làm Tư lệnh Sư đoàn 10). Ngày Quốc khánh Đệ nhịNhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm.
 
Tháng 11 năm 1966, ông được chỉ định chức vụ Quyền Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật thay thế Trung tướng [[Đặng Văn Quang]].<ref>Trung tướng [[Đặng Văn Quang]] được chuyển về Trung ương và được đề cử vào Nội các Chính phủ Thủ tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] làm Tổng uỷ viên Kế hoạch.</ref> Ngày 4 tháng 2 năm 1967, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]] và chính thức được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật.