Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Văn Toàn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: ệ nhị → ệ Nhị (3), ệ thất → ệ Thất using AWB
Dòng 14:
|chỉ huy= [[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|26px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|tham chiến= [[Chiến tranh Việt Nam]]
|khen thưởng= [[Bảo quốc Huân chương|B.Quốc H.Chương Đệ II]]<ref>Bảo quốc Huân chương đệ nhịNhị đẳng.</ref>
}}
 
Dòng 32:
Đầu năm 1961, ông được giữ chức Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp tại Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất do Trung tá [[Nguyễn Văn Thiện]] làm Chỉ huy trưởng. Năm 1962, ông được cử đi du học lớp Tham mưu Đặc biệt (giáo trình chống nổi loạn) tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ.
 
Tháng 6 năm 1963, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng trường Thiết giáp tại Long Hải, Phước Tuy thay thế Thiếu tá [[Dương Văn Đô (Đại tá, Quân lực VNCH|Dương Văn Đô]].<ref>Sinh năm 1926 tại Sơn Tây, tốt nghiệp khóa 2 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức</ref> Cuối năm 1964, bàn giao trường Thiết giáp lại cho Trung tá [[Lâm Quang Thơ]] để đi tái nhiệm chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Thiết giáp tại Đà Nẵng thay thế Trung tá Nguyễn Tuấn. Ngày 1 tháng 11 năm 1965,<ref>Ngày kỷ niệm hai năm Cách mạng 1 tháng 11 năm 1963 thành công, sau này dùng làm ngày Quốc khánh cho nền Đệ nhịNhị Cộng hòa (giai đoạn từ 1967-1975)</ref> ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm.
 
Đầu tháng 1 năm 1967, ông được lệnh bàn giao Trung đoàn 4 Thiết giáp lại cho Thiếu tá [[Phan Hòa Hiệp]]. Trung tuần tháng 1 ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh thay thế Thiếu tướng [[Hoàng Xuân Lãm]] được cử đi làm Tư lệnh Quân đoàn I, Quân khu 1.
 
Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Ngày Quốc khánh Đệ nhịNhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1970, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]] tại nhiệm.
 
Đầu tháng 2 năm 1972, ông được chỉ định chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp, hoán chuyển nhiệm vụ với Đại tá Phan Hòa Hiệp về làm Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh. Tháng 5 cùng năm, bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết giáp lại cho Đại tá Dương Văn Đô. Sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II thay thế Trung tướng [[Ngô Du]]<ref>Trung tướng Dzu do yếu kém về lãnh vực chỉ huy trong chiến trận "Mùa hè dỏ lửa" năm 1972, đã để tổn thất quá nhiều cho Quân đoàn II và Quân khu 2, nên đã xin từ nhiệm trước để tránh việc bị cách chức.</ref>
Dòng 45:
Ngày 6 tháng 1, ông được kiêm nhiệm chức Tư lệnh Quân đoàn III thay thế Trung tướng [[Dư Quốc Đống]] (xin từ nhiệm).
 
Chiều ngày 29 tháng 4, ông dùng trực thăng di tản ra Đệ thấtThất Hạm đội đang đậu ở ngoài khơi Vũng Tàu. Sau đó, ông được sang định cư ở Tp Los Algeles, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
 
Ngày 19 tháng 10 năm 2005, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 73 tuổi. Ông được an táng tại Nghĩa trang Rose Hill, Los Algeles, California, Hoa Kỳ.