Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phan Đình Thứ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n sửa tên trường theo đúng giai đoạn trường cấp chứng chỉ cho học viên
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n clean up, replaced: ệ tam → ệ Tam, ệ tứ → ệ Tứ using AWB
Dòng 12:
|năm phục vụ= [[1937]]-[[1973]]
|cấp bậc= [[Hình: US-O7 insignia.svg|16px]] [[Chuẩn tướng]]
|đơn vị= [[ ]] [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 13 Khinh chiến]]<br>[[Hình: ARVN 23rd Division Insignia.svg|20px]] [[Sư đoàn 23 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 16 Khinh chiến]]<br>[[Hình: 81st Airborne Commando Battalion.svg|20px]] [[Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa|Lực lượng Đặc biệt]]<br>[[Hình: Cư an tư nguy.svg|20px]] [[Trường Bộ binh Thủ Đức|Võ khoa Thủ Đức]]<br/>[[Hình: Vietnamese Rangers SSI.svg|20px]] [[Lực lượng Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa|Biệt động quân]]<br>[[Hình: ARVN Capital Military Zone Unit SSI.svg|20px]] [[Biệt khu Thủ đô]]<br>[[Hình: QD II VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn II (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn II và QK 2]]<br>[[Hình: QD III VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)|Quân đoàn III và QK 3]]
|chỉ huy= [[Hình: Flag of France.svg|26px]] [[Quân đội Pháp|QĐ Viễn chinh Pháp]]<br>[[Hình: Flag of France.svg|26px]] [[Quân đội Pháp|QĐ Liên hiệp Pháp]]<br/>[[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|26px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|công việc khác= [[Lãnh sự|Tuỳ viên Quân sự]]
Dòng 34:
 
===Quân đội Việt nam Cộng hòa===
Năm 1955, Quân đội quốc gia được đổi tên thành [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], ông được thăng cấp [[Trung tá]] và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 16 Khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 23 Bộ binh)'' đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. Cuối năm 1957, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 16 Khinh chiến lại cho Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]]. Đầu năm 1958, ông được thăng cấp [[Đại tá]]<ref>Có tài liệu viết tướng Phan Đình Thứ sinh năm 1916 tại Hà Tĩnh, thăng cấp Đại tá năm 1956 và Chuẩn tướng năm 1972. Tuy nhiên, trong bài này ghi ông sinh năm 1918 và thăng cấp Đại tá năm 1958, Chuẩn tướng 1971 là theo sách "Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa", vì các soạn giả ''Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân''... nguyên là những sĩ quan cao cấp từng phục vụ trong những bộ phận có liên quan đến Ban Quân sử và Trung tâm Hồ sơ Cá nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Hơn nữa, các vị này cũng đã trực tiếp gặp hoặc trao đổi bằng thư từ và điện thoại với các cựu tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa về các chi tiết trước khi viết tiểu sử của họ trong sách nói trên.</ref> thay thế Đại tá [[Lâm Văn Phát]] làm Tư lệnh Sư đoàn 13 Khinh chiến ''(tiền thân của Sư đoàn 21 Bộ binh)'', đồn trú tại Bến Kéo, Tây Ninh. Tháng 12 cùng năm, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Tháng 3 năm 1959, ông vi phạm kỷ luật ở trường nên bị triệu hồi về nước và được cử đi làm Sĩ quan Tùy viên Quân sự cạnh Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thủ đô Manila của Philippines.
 
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông được cử thay thế Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]] giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân.<ref>Chỉ huy trưởng thứ ba của Binh chủng Biệt động quân, sau Thiếu tá [[Lữ Đình Sơn (Thiếu tá, Quân lực VNCH)|Lữ Đình Sơn]] (Năm 1963 giải ngũ cùng cấp) và Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]].</ref> Giữa tháng 5 năm 1962, ông nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Đại tá [[Tôn Thất Xứng]]. Cùng thời điểm ông được chỉ định vào chức vụ Chỉ huy trưởng Liên trường Võ khoa Thủ Đức<ref>Chỉ huy trưởng thứ năm của trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, sau Đại tá [[Phạm Văn Cảm (Đại tá, Quân đội VNCH)|Phạm Văn Cảm]] (Sinh năm 1904 tại Hà Nam, tốt nghiệp trường Võ bị Lục quân Pháp. Giải ngũ năm 1956), Thiếu tướng [[Lê Văn Nghiêm]], Đại tá [[Nguyễn Văn Chuân]] và Đại tá [[Hồ Văn Tố]].</ref> thay thế Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]] vừa từ trần. Ông đã sáng kiến ghi thêm 4 chữ "Cư An Tư Nguy" trên phù hiệu của trường.<ref>Bốn chữ ''Cư An Tư Nguy'' có nghĩa là: Muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm nguy. Suy rộng ra: Muốn hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh.</ref> Trong thời gian đương nhiệm, ông đã tổ chức lễ mãn khóa cho 3 khóa Sĩ quan Trừ bị là khóa 12 Trần Hưng Đạo, khóa 13 Ấp Chiến Lược và khóa 14 Nhân Trí Dũng. Đầu tháng 8 năm 1963, Liên trường Võ khoa Thủ Đức trở lại tên gọi ban đầu là trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
 
Đầu tháng 11 năm 1963, ông được lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức lại cho Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]]. Trung tuần tháng 2 năm 1964, ông được cử làm Tư lệnh Binh chủng Lực lượng Đặc biệt<ref>Tư lệnh thứ ba của Binh chủng Lực lượng Đặc biệt sau Đại tá [[Lê Quang Tung]] và Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]]</ref> thay thế Trung tướng [[Lê Văn Nghiêm]] đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự. Tháng 8 cùng năm, bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] ''(nguyên Chỉ huy trưởng Biệt động quân Vùng 3 Chiến thuật)''. Sau đó ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu nhận nhiệm vụ trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị với chức vụ Tổng cục phó đặc trách về Thể dục & Thể thao. Tháng 9 năm 1969, ông được tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Thời điểm này, ông đã sáng kiến xây dựng "Nghĩa Dũng đài" trước trại Chương Dương của Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt ở Nha Trang để tưởng niệm các anh hùng tử sĩ của Binh chủng đã hy sinh vì Tổ Quốc.
 
Đầu năm 1970, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Thiếu tướng [[Phạm Văn Phú]]. Ngay sau đó, ông được về Sài Gòn giữ chức vụ Phụ tá Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 6 cùng năm, thuyên chuyển đến Quân đoàn III giữ chức vụ Tư lệnh phó Lãnh thổ Quân khu 3 kiêm Chỉ huy trưởng Địa phương quân & Nghĩa quân thuộc Quân khu. Đầu năm 1971, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]]<ref>Có giai thoại nói rằng năm 1964, sau khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc Chỉnh lý, đã thăng cấp Chuẩn tướng cho ông, nhưng vì ông không phục tướng Khánh nên không đến dự lễ gắn lon và vẫn tiếp tục mang cấp Đại tá.</ref> tại nhiệm. Năm 1972, thuyên chuyển ra Quân khu 2, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng.<ref>Một lần nữa thay thế Thiếu tướng [[Đoàn Văn Quảng]]. Tướng Quảng được điều về Sài Gòn làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung.</ref>
 
Vào một buổi tối tháng 9 năm 1972, tại Tổng hành dinh Quân đoàn II ở Pleiku, một viên Trung sĩ người Thượng tinh thần bất ổn do uống rượu say đứng ở cổng, tay cầm lựu đạn đã rút chốt chờ ông về để ám sát. Quân cảnh đến can thiệp đương sự không chịu, khi ông về khuyến cáo cũng không nghe. Ông đã nấp ở sau bờ tường dùng súng bắn khiến đương sự ngã quỵ, lựu đạn nổ làm người Hạ sĩ quan này bị trọng thương và sau đó tử vong.
Dòng 48:
===Được tặng thưởng Huy chương===
Trong cuộc đời binh nghiệp ông được thưởng nhiều huân, huy chương của Việt Nam Cộng hòa, Pháp, Mỹ và đặc biệt là Lào.
*-''Huy chương Việt Nam Cộng hòa:''<br>-Đệ tamTam đẳng Bảo quốc Huân chương -Đệ tứTứ đẳng Bảo quốc Huân chương<br>-Lục quân Huân chương -Biệt công Bội tinh<br>-Chiến thương Bội tinh -Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu<br>-Anh dũng Bội tinh với ngôi Sao vàng -Mười lần Tuyên dương Công trạng trước Quân đội.
*-''Huy chương Pháp:''<br>-Legion D’Honneur (Bắc đẩu Bội tinh, Pháp)<br>-Croix De Gùerre 1942-1946 (Chiến dịch Bội tinh cho những sĩ Quan tham dự trận Đại chiến thứ 2)<br>-Medaille De La Résistance 1943 (Huy chương Bảo vệ nước Pháp), do Tổng thống Charles De Gaulle trao tặng những sĩ Quan đã bảo vệ nước Pháp trong trận Chiến tranh thế giới thứ hai 1943.
:-''Huy chương Mỹ:''<br>-Silver Star, do Đại tướng Westmoreland gắn tại Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc Biệt Nha Trang.