Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thi Sách”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
Ông được biết đến là [[chồng]] của [[Trưng Trắc]], vị nữ thủ lĩnh ở [[Lĩnh Nam]] đã nổi dậy đánh lại Thái thú [[Tô Định]] và lên ngôi [[Nữ vương]] trong một thời gian ngắn, trước khi bị Phục Ba tướng quân [[Mã Viện]] đánh bại. con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên, và là người cổ súy nhân dân nổi lên chống lại chế độ cai trị của nhà [[Nhà Hán#Sự trỗi dậy và sụp đổ của nhà Đông Hán|Đông Hán]] ([[Trung Quốc]]) trong [[lịch sử]] [[Việt Nam]].
==Tiểu sử==
=== Xuất thân ===
'''Thi Sách''' là người huyện Chu Diên<ref>Chu Diên: vùng [[Đan Phượng]], [[Từ Liêm]], ngoại thành [[Hà Nội]] (chú thích theo ''Lịch sử Việt Nam'' [tập 1], tr. 262).</ref>, quận [[Giao Chỉ]]. Năm 20 tuổi, ông cưới [[Hai Bà Trưng|Trưng Trắc]],
Bất bình chế độ cai trị của nhà [[Nhà Hán#Sự trỗi dậy và sụp đổ của nhà Đông Hán|Đông Hán]], Thi Sách (lúc bấy giờ đang làm Huyện lệnh huyện Châu Diên<ref>Theo ''[[Việt sử tân biên]]'' (tập 1), tr. 163.</ref>) bèn vận động nhân dân cùng nổi lên chống lại
Năm [[Giáp Ngọ]] ([[34]]), [[Tô Định]] sang thay [[Tích Quang]] làm Thái thú quận Giao Chỉ, làm nhiều điều bạo ngược, Thi Sách gửi thư đến cảnh cáo. Tô Định đem đại quân đến đàn áp, ông bị giết chết năm [[Kỷ Hợi]] ([[39]]). [[Tháng 2]] năm sau ([[40]]), vợ ông là Trưng Trắc cùng em gái là [[Trưng Nhị]] nổi dậy đánh đuổi được Tô Định, trả được nợ nước, thù nhà.
Sau, khi chép về cuộc khởi nghĩa này, ''[[Hậu Hán thư]]'' đã khen Thi Sách là người "rất hùng dũng"<ref>''Hậu Hán thư'', Liệt truyện 76, Nam Man-Tây Nam Di.</ref>.
=== Tên thật của ông ===
Vào [[thế kỷ 6]], [[Lịch Đạo Nguyên]] từ [[Trung Quốc]] sang Giao Chỉ, có đến vùng Mê Linh. Khi trở về nước, ông viết sách ''[[Thủy kinh chú]]'', trong đó có đoạn:▼
:''Châu Diên Lạc tướng tử, danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ, danh Trưng Trắc, vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo Trắc, Thi tẩu nhập Cấm Khê'' (quyển 37, tờ 6a. Nguyên tác không có dấu phẩy).▼
Theo GS. Nguyễn Lý Tưởng thì câu văn trên có nghĩa là: "Con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên là Thi, hỏi con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người có can đảm và dũng lược, cùng với Thi nổi lên làm giặc. Mã Viện đem quân đánh đuổi. Trắc, Thi chạy vào Cấm Khê" (ở đây "sách" có nghĩa là "hỏi").▼
Nhưng vì câu văn [[chữ Hán]] ngày xưa không có dấu câu, dễ lẫn lộn câu này qua câu khác, nên khi chú thích phần chính văn viết về [[Hai Bà Trưng]] trong [[Hậu Hán thư]] của [[Phạm Việp]], Thái tử Lý Hiền đời [[nhà Đường]] đã chép lầm là "Thi Sách". Sau, các tác giả khác cứ theo đó mà chép lại nên sai mãi về sau. Người phát hiện ra việc này là học giả Huệ Đống, đời [[nhà Thanh]]<ref>Xem chi tiết trong sách ''Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu'' của GS. Nguyễn Lý Tưởng (xuất bản tại [[California]], tr. 530-531) và tham khảo thêm ở đây: [http://www.petruskylhp.org/trungnuvuong.htm] và [http://www.chuyenquangtrung.com.vn/forums/showthread.php?tid=1528].</ref>.▼
Ngoài ra, theo một số tác giả trong đó có [[Phạm Văn Sơn]]<ref>''Việt sử tân biên'' (quyển 1, tr. 161)</ref> thì Thi Sách mang họ Đặng. Trái lại, trong ngọc phả đình Nại Xá (huyện [[Đan Phượng]]), thì lại ghi ông là người họ Dương.▼
== Thần tích ==
Hàng 30 ⟶ 37:
:''Phương Nam tuy nhỏ nhưng ức vạn sinh linh cũng là con đỏ của triều đình cả; kẻ đi tuyên dương đức hóa, cốt phải lấy việc yên dân trước hết.
:''Ngươi (chỉ Tô Định) nay làm việc chính trị, bắt tội người nói thẳng, bầy mưu hay, yêu kẻ luồn lọt bợ đỡ, cho hầu gái được nhúng vào chính trị, cho nịnh thần được chuyên quyền. Lúc nào cũng bô bô nói chuyện thương dân, thế mà tấm lòng bóc lột kẻ dưới ngày càng dữ! Rán mỡ dân để thỏa lòng dục, cậy mình sức mạnh thể như gươm Thái A sắc bén, nào biết cơ mình nguy ngập như giọt sương sớm dễ tan!''
:''Nếu không sửa đổi chính sách cho rộng rãi thì nguy vong đến nơi đấy!''
Tài liệu này của ông [[Hoàng Thúc Hội]], tức [[Cúc Hương]]. Phạm Văn Sơn (''Việt sử tân biên'' [tập 1, tr. 164-165]) và Nguyễn Q. Thắng–Nguyễn Bá Thế (''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', tr. 833) đều đã dẫn lại trong sách của mình.
▲Vào [[thế kỷ 6]], [[Lịch Đạo Nguyên]] từ [[Trung Quốc]] sang Giao Chỉ, có đến vùng Mê Linh. Khi trở về nước, ông viết sách ''[[Thủy kinh chú]]'', trong đó có đoạn:
▲:''Châu Diên Lạc tướng tử, danh Thi, sách Mê Linh Lạc tướng nữ, danh Trưng Trắc, vi thê. Trắc vi nhân hữu đảm dũng, tương Thi khởi tặc. Mã Viện tương binh thảo Trắc, Thi tẩu nhập Cấm Khê'' (quyển 37, tờ 6a. Nguyên tác không có dấu phẩy).
▲Theo GS. Nguyễn Lý Tưởng thì câu văn trên có nghĩa là: "Con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên là Thi, hỏi con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người có can đảm và dũng lược, cùng với Thi nổi lên làm giặc. Mã Viện đem quân đánh đuổi. Trắc, Thi chạy vào Cấm Khê" (ở đây "sách" có nghĩa là "hỏi").
▲Nhưng vì câu văn [[chữ Hán]] ngày xưa không có dấu câu, dễ lẫn lộn câu này qua câu khác, nên khi chú thích phần chính văn viết về [[Hai Bà Trưng]] trong [[Hậu Hán thư]] của [[Phạm Việp]], Thái tử Lý Hiền đời [[nhà Đường]] đã chép lầm là "Thi Sách". Sau, các tác giả khác cứ theo đó mà chép lại nên sai mãi về sau. Người phát hiện ra việc này là học giả Huệ Đống, đời [[nhà Thanh]]<ref>Xem chi tiết trong sách ''Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu'' của GS. Nguyễn Lý Tưởng (xuất bản tại [[California]], tr. 530-531) và tham khảo thêm ở đây: [http://www.petruskylhp.org/trungnuvuong.htm] và [http://www.chuyenquangtrung.com.vn/forums/showthread.php?tid=1528].</ref>.
▲Ngoài ra, theo một số tác giả trong đó có [[Phạm Văn Sơn]]<ref>''Việt sử tân biên'' (quyển 1, tr. 161)</ref> thì Thi Sách mang họ Đặng. Trái lại, trong ngọc phả đình Nại Xá (huyện [[Đan Phượng]]), thì lại ghi ông là người họ Dương.
==Xem thêm==
|