Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Cung Hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: chôn ở → chôn ở (2) using AWB
Dòng 48:
 
== Thân thế ==
Cung Hoàng có tên [[húy]] là '''Lê Xuân''' (黎椿), sinh vào ngày [[26 tháng 7]] năm Đoan Khánh thứ 3 ([[1507]]). Ông là chắt của [[Lê Thánh Tông]], cháu nội của Kiến Vương [[Lê Tân]], con thứ của Cẩm Giang vương [[Lê Sùng]] (黎漴), là em cùng mẹ với [[Lê Chiêu Tông]].
 
Nửa đêm ngày [[22 tháng 7]], năm [[1522]], Chiêu Tông do sự trợ giúp của [[Phạm Hiến]], [[Phạm Thứ]], bỏ trốn sang [[Sơn Tây]] gọi quân ''Cần vương''. Khi Chiêu Tông lẻn đi chỉ có một số cận thần kịp đi theo, Lê Xuân và mẹ không kịp biết. [[Mạc Đăng Dung]] sai thủ hạ [[Hoàng Duy Nhạc]] đuổi theo Chiêu Tông nhưng bị Chiêu Tông dùng quân huyện [[Thạch Thất]] đánh trả, bắt giết. Thiên tử vuột khỏi tay, Đăng Dung bị mất danh chính, bèn lập ông lên ngôi, lấy niên hiệu là '''Thống Nguyên''' (統元).
Dòng 57:
[[Mạc Đăng Dung]] lấy danh nghĩa Thống Nguyên Đế để đánh nhau với phe Chiêu Tông. Mọi việc trong triều đình Thăng Long đều do Đăng Dung quyết định. Tuy nhiên thanh thế của Chiêu Tông rất lớn, Mạc Đăng Dung yếu hơn phải rút sang vùng [[Hải Dương]] phía đông, các xứ phía Nam, Tây, Bắc đều đi theo Chiêu Tông.
 
Năm [[1522]], Vĩnh Hưng bá [[Trịnh Tuy]] ở [[Thanh Hoá|Thanh Hóa]] ra cần vương, bất hoàhòa với các tướng Bắc Bộ. Trịnh Tuy mang Chiêu Tông vào Thanh HoáHóa, ra lệnh các đạo bãi binh. Từ đó các đạo không theo lệnh Chiêu Tông nữa. Hai mãnh tướng [[Nguyễn Kính]], [[Nguyễn Áng]] về theo Mạc Đăng Dung. Tình thế bắt đầu thay đổi, Đăng Dung lấy danh nghĩa Thống Nguyên Đế phế Chiêu Tông làm ''Đà Dương vương'' (陀陽王), mang quân đánh Chiêu Tông, liên tiếp thắng trận.
 
Năm [[1524]], Cung Hoàng ở hành dinh Bồ Đề, tiến phong Mạc Đăng Dung làm ''Bình chương quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công''. Đăng Dung đánh bại Trịnh Tuy ở Thanh HoáHóa, Tuy thua trận bỏ chạy rồi chết.
 
[[Tháng 10]] năm [[1525]], Đăng Dung dẫn toàn bộ thủy lục quân vào [[Thanh Hóa|Thanh Hoá]], bắt được Chiêu Tông, đem giải về kinh giam lỏng.
 
[[Tháng 12]] năm [[1526]], Mạc Đăng Dung sai Bái Khê bá [[Phạm Kim Bảng]] bí mật giết Lê Chiêu Tông tại phường Đông Hà, đem [[chôn cất|chôn]] ở [[Vĩnh Hưng lăng]], Thanh Đàm.
Dòng 68:
Chiêu Tông bị giết, vai trò lá chắn của Cung Hoàng không còn. Đăng Dung tính chuyện cướp ngôi nhà Lê, giả cách lui về quê ở Cổ Trai ([[Hải Phòng]]) nhưng thực tế vẫn nắm triều đình.
 
[[Tháng 4]] năm [[1527]], Cung Hoàng sai Trùng Dương hầu [[Vũ Hữu]], Lan Xuyên bá [[Phan Đình Tá]] và Trung sứ [[Đỗ Hiếu Đễ]] cầm cờ mao tiết, mũ áo ô lọng, đại ngọc, kiệu tía, quạt vẽ đến Cổ Trai phong Đăng Dung làm ''An Hưng vương'' (安興王), Đăng Dung tiếp sứ đoàn ở bến An Tháp, huyện Tân Minh (nay là khu vực [[Tiên Lãng]], [[Kiến An]]). Cung Hoàng còn tặng ông ta bài thơ ''Chu Công giúp Thành vương'', ý muốn ông này giúp hoàng đế và triều đình như [[Chu Công Đán]] giúp đỡ [[Chu Thành vương]] đời xưa. Nhưng Đăng Dung chưa mãn nguyện và không cam chịu làm tước [[Vương (tước hiệu)|vương]].
 
Ngày [[15 tháng 6]] năm [[1527]], Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào kinh, bắt Cung Hoàng nhường ngôi. Nhân dân trong kinh đón Đăng Dung vào kinh. Triều thần lúc đó hầu hết đã là người của Đăng Dung hoặc theo Đăng Dung, tự khởi thảo chiếu nhường ngôi.
 
Mạc Đăng Dung xưng [[Hoàng đế]], tức là [[Mạc Đăng Dung|Mạc Thái Tổ]], lập ra [[nhà Mạc]], lấy niên hiệu là '''Minh Đức''' (明德). Cung Hoàng bị giáng xuống làm '''Cung Vương''' (恭王) rồi giam cùng với Hoàng thái hậu ở Tây cung.
 
Vài tháng sau, Mạc Đăng Dung ép mẹ con Cung Hoàng phải tự tử. Thái hậu khấn trời rằng: ''"Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, ngày sau con cháu nó cũng lại bị như thế."''. Rồi bà tự vẫn chết, Cung Hoàng cũng tự vẫn, năm đó ông 21 tuổi.
 
Đăng Dung sai đem xác hai người để phơi ngoài quán Bắc Sứ, rồi đưa về [[chôn cất|chôn]] ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên (nay là xã Mỹ Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh [[Thái Bình]]), theo nghi lễ của thiên tử và hoàng thái hậu.
Dòng 84:
* Mẹ: [[Trịnh Thị Loan]] (鄭氏鸞; ? - 1527), được tôn làm [[Hoàng thái hậu]] vào năm [[1517]]. Bà chết cùng ngày với Cung Hoàng. Về sau tôn phong làm ''Đoan Mục Triết hoàng hậu'' (端穆慈哲皇后).
* Hậu phi:
# Quý phi Nguyễn thị (贵妃阮氏), người xã [[Đa Ngưu]], huyện [[Văn Giang]], con gái Thông quốc công [[Nguyễn Thì Ung]]. Cung Hoàng lên ngôi, đưa vào cung phong làm [[Quý phi]]. Bà cùng với vuaCung Hoàng bị [[Mạc Đăng Dung]] giam lại rồi phế truất ở Tây cung. Khi Mạc Đăng Dung cắt giảm không cho ăn uống, Thông quốc công cáo bệnh và rước con gái về, nhưng bà từ chối. Bà nói: ''Cha ta trăm tuổi đã có anh em; ta hầu vua thì sống chết với vua, không có lý gì mà bỏ về''. Cứ như thế, cha bà phải sai nữ hầu bắt bà lên [[võng]]. Bà [[khóc]] to, những người trông thấy đều thương cảm. Bà về tới nhà, không chịu ăn uống gì rồi chết.
# Quý phi Đào thị (贵妃陶氏), con gái Lỵ quốc công [[Đào Đại La]], vào cung cùng Nguyễn Quý phi và được phong Quý phi cùng cấp. Khi vuaLê Cung Hoàng bị giam, bà cũng bị giam theo, Lỵ quốc công hoảng hốt cáo bệnh và đón con gái về.
 
==Đánh giá==
Nhận xét về ông vua này, sử thần triều Lê đã viết: Lúc ấy vận nước đã suy, lòng người đã lìa, tài vua lại vào hạng kém, có thể dẹp yên sao được.
 
Như vậy là [[Hậu Lê|triều Lê]] kể từ [[Lê Thái Tổ]] lên ngôi (1428) đến Cung Hoàng (1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu tính cả thời gian [[Lê Thái Tổ|Lê Lợi]] dấy quân xưng là Bình Định vương năm Mậu Tuất (1418) cộng là 110 năm. Đây là thời kì các vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước. Các nhà sử học gọi là thời tiền[[Nhà(hay sơ|Lê sơ)]] để phân biệt với [[Nhà Lê trung hưng|Trungtrung Hưnghưng]] về sau.
== Chú thích ==
{{tham khảo}}