Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Biển Aral”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 44:
== Hiện tại ==
Biển Aral hiện này đã mất 60% diện tích mặt nước và 80% lượng nước. Năm 1960, nó là hồ lớn thứ tư thế giới với khoảng 68 nghìn km² và 1.100 tỷ mét khối nước (1.100 km^3 khối). Đến năm 1998, hồ chỉ còn đứng thứ 8 với diện tích 28.687 km². Trong cùng khoảng thời gian trên, nồng độ muối của hồ tăng từ 10g/lít lên 45g/lít. Năm 2004, diện tích hồ còn 17.160 km vuông, tương đương 25% diện tích ban đầu và vẫn thu hẹp.
Tuy nhiên vào những năm 1960 liên xô dưới thời stalin đã quyết định thay đổi hướng chảy của 2 con sông chủ yếu cấu thành niên hồ Aral đó là Syr Darya và Amu Darya và xây nhiều đập tới tiêu để trồng bông cung cấp áo quần cho quân đội (vì bông vào những năm 60 của thế kỉ trước vô cùng đắt đỏ và nhu cầu từ nó rất lớn, nó còn đươc mệnh danh là vàng trắng trong thời kì đó ) nên liên xô đã quyết định "tự cung tự cấp" dẫn đến quyết định thay đổi hiện trạng của hai con sông lớn nhằm cung cấp nước để cho người dân trong liên bang có thể tự trồng trọt được trên sa mạc, vì lẻ đó từ năm bắt đầu đến nay biển aral liên tục bốc hơi mà không có nước bổ sung là biển hồ này ngày càng sa mạc hóa và chỉ còn 1 phần nhỏ so với trước đây.
 
Việc phát hiện nguồn nước ngầm đổ vào hồ gần đây cũng không bù đắp nổi lượng nước cần thiết để ngăn chặn sự mất nước. Nguồn bổ sung 4 tỷ m³ hàng năm này lớn hơn ước đoán trước đây. Đó là dòng nước từ các dãy núi [[dãy núi Pamir|Pamir]] và [[Thiên Sơn]] đổ vào qua các lớp địa tầng có cấu trúc đứt gãy ở đáy hồ.
Hàng 51 ⟶ 52:
Công việc khôi phục biển được thực hiện ở phần Aral Bắc. Các công trình tưới tiêu trên sông [[Syr Darya]] đã được cải thiện nhằm tăng lượng nước đổ vào biển. Tháng 10 năm 2003, chính phủ [[Kazakhstan]] thông báo kế hoạch xây con đập bê tông (đập Kokaral) ngăn cách hai nửa biển Aral (Bắc và Nam). Kể từ khi con đập hoàn thành tháng 08 năm 2005, mực nước ở Aral Bắc đã dâng lên, nồng độ muối giảm xuống. Tới năm 2006, mực nước biển Aral tăng lên đáng kể, sớm hơn cả dự kiến. Như trong một báo cáo, "chiếc đập đã nhanh chóng nâng mực nước ở biển Aral nhỏ (Aral Bắc) lên 125 foot từ mức 98 foot và có khả năng lên 138 foot". Nguồn cá đã trở lại, nhiều nhà quan sát, từng cho rằng Aral Bắc là một thảm họa môi trường, đã thật ngạc nhiên bởi những báo cáo năm 2006 về công nghiệp đánh bắt đã phục hồi nhờ đủ nước và những mẻ cá được xuất tới tận [[Ukraina]]. Sự khôi phục mang lại những đám mây tạo mưa vốn từ lâu vắng bóng cùng những thay đổi khí hậu nhỏ, dấy lên hi vọng cho khu vực nông nghiệp vốn bị cát lấn và hi vọng mở rộng trở lại của biển. Biển Aral trước đây cách thành phố từng là cảng [[Aralsk]] chừng 100 km về phía nam, giờ chỉ còn cách 25 km.
 
Phần biển Nam Aral - phần lớn nằm ở [[Uzbekistan]] vốn nghèo hơn, bị bỏ mặc cho số phận, song dự án ở phần Aral Bắc đã mang lại đôi chút hi vọng. Với việc có con đập ở Aral Bắc, nước tháo từ đây định kỳ bổ sung cho phần phía nam. Các cuộc thảo luận đang diễn ra về khả năng nối lại con kênh giữa phần bắc và nam. Aral Nam vẫn đang co ngót, để lại những vùng đất nhiễm muối, gây ra các trận bão cát, mùa đông trở nên lạnh hơn và mùa hè nóng hơn. Những nỗ lực hạn chế ảnh hưởng này là phủ xanh những vùng biển vừa rút đi.
 
Cho đến mùa hè 2003, phần biển Aral Nam mất đi nhanh hơn dự đoán. Ở những vùng nước sâu nhất của biển này, lớp nước dưới đáy mặn hơn lớp nước mặt và không hòa tan với nhau nữa. Vì thế chỉ phần nước mặt bị đốt nóng dưới ánh mặt trời và nó bay hơi nhanh hơn tính toán. Theo những số liệu gần đây, phần phía tây của biển Aral Nam sẽ biến mất trong vòng 15 năm, phần phía đông sẽ tiếp tục tồn tại nhưng cũng không chắc về số phận của nó nữa.