Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lai hóa (hóa học)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 123.27.29.211 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 113.190.196.6
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Trong hóa học, '''lai hóa obitan''' là khái niệm về việc trộn lẫn các [[obitan nguyên tử]] thành những ''obitan lai hóa'' mới(với mức năng lượng, hình dạng,... khác với các obitan nguyên tử thành phần) phù hợp để các electron hình thành [[liên kết hóa học]] trong [[thuyết liên kết hóa trị]]. Obitan lai hóa rất có ích trong việc giải thích [[hình học phân t]] và tính chất liên kết nguyên tử. Tuy đôi lúc được dạy cùng với [[Thuyết VSEPR|thuyết đẩy lùi cặp electron vỏ hóa trị (VSEPR)]], thực tế là liên kết cộng hóa trị và sự lai hóa không liên quan tới mô hình VSEPR.<ref>{{citation | last= Gillespie | first=R.J. | year=2004 | title=Teaching molecular geometry with the VSEPR model | journal=Journal of Chemical Education | volume=81 | issue=3 | pages=298–304 | doi=10.1021/ed081p298 |bibcode = 2004JChEd..81..298G }}</ref>
Trong [[thuyết]] [[hóa trị]] [[định hướng]], [[khái niệm]] về sự [[lai hóa]] các [[obitan nguyên tử]] là quan trọng nhất. [[Pauling]] và [[Slayter]] là người [[đề xuất]] vào năm [[1931]] để giải thích sự [[định hướng]] và [[sức bền vật liệu|độ bền]] của các [[hợp chất]] [[hữu cơ (định hướng)|hữu cơ]] và [[vô cơ (định hướng)|vô cơ]] (chủ yếu là các [[phức chất]]).
 
==Lịch sử==
[[Nhà hóa học]] [[Linus Pauling]] lần đầu phát minh ra thuyết lai hóa vào năm 1931 để giải thích cấu trúc của những [[phân tử]] đơn giản như [[metan]] (CH<sub>4</sub>) bằng cách dùng [[obitan nguyên tử]].<ref>{{citation | last=Pauling | first=L. | year=1931 | title=The nature of the chemical bond. Application of results obtained from the quantum mechanics and from a theory of paramagnetic susceptibility to the structure of molecules | journal=[[Journal of the American Chemical Society]] | volume=53 |issue=4 | pages=1367–1400 | doi=10.1021/ja01355a027 }}</ref>Pauling chỉ ra rằng một nguyên tử cacbon hình thành bốn liên kết bằng cách dùng một obitan s và ba obitan p, do đó "có thể suy ra" rằng một nguyên tử cacbon sẽ hình thành ba liên kết tại góc vuông (sử dụng các obitan p) và một liên kết thứ tư yếu hơn bằng obitan s với hướng tùy ý. Tuy nhiên theo thực tế, metan có bốn liên kết với sức mạnh bằng nhau và với góc liên kết [[hình học phân tử tứ diện|tứ diện]] 109.5°. Pauling giải thích bằng cách giả sử sự xuất hiện của bốn nguyên tử hydro, obitan s và p hình thành bốn
tổ hợp tương đương hay là obitan ''lai hóa'', mỗi tổ hợp được biểu thị là sp<sup>3</sup> để thể hiện thành phần của nó, thứ nằm dọc theo bốn liên kết C-H.<ref>L. Pauling ''The Nature of the Chemical Bond'' (3rd ed., Oxford University Press 1960) p.111–120.</ref> Khái niệm này được phát triển cho hệ thống hóa học đơn giản nhưng sau này đã được áp dụng rộng rãi, ngày nay còn được coi là một [[phương pháp]] hiệu quả để giải thích hợp lý cấu trúc [[hợp chất hữu cơ]]. Nó cho ta một bức tranh đơn giản tương đương với [[cấu trúc Lewis]]. Thuyết lai hóa chủ yếu được sử dụng trong hóa hữu cơ, một trong những ví dụ thuyết phục nhất là [[quy tắc Baldwin]]
 
== Obitan nguyên tử ==
{{main|Obitan nguyên tử}}
 
Obitan là một mô hình đại diện cho chuyển động của các electron trong phân tử. Trong trường hợp lai hóa đơn giản, sự ước chừng này được dựa trên obitan nguyên tử, tương tự với những obitan của nguyên tử hydro, nguyên tử trung tính duy nhất mà [[phương trình Schrödinger]] có thể giải quyết chính xác. Với các nguyên tử nặng hơn như cacbon, nito và oxi, obitan nguyên tử được sử dụng là 2s và 2p, tương tự với trạng thái obitan bị kích thích của hydro.
 
== Khái niệm ==