Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủng Sư Đạo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Đang viết}} Chủng Sư Đạo (种师道) (1051 - 1126), tên chữ là Di Thúc, người Lạc Dương (nay thuộc Hà Nam). Nguyên tên là Kiến Tru…”
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 10:52, ngày 5 tháng 2 năm 2018

Chủng Sư Đạo (种师道) (1051 - 1126), tên chữ là Di Thúc, người Lạc Dương (nay thuộc Hà Nam). Nguyên tên là Kiến Trung, bởi vì tị huý niên hiệu Kiến Trung Tĩnh Quốc thời Tống Huy Tông nên đổi tên là Sư Cực, sau được Huy Tông ban tên là Sư Đạo. Là danh tướng những năm cuối thời Bắc Tống. Là con trưởng của Chủng Ký, con thứ 7 của Chủng Thế Hành, được mọi người gọi là lão Chủng kinh lược tướng công, em là Chủng Sư Trung được gọi là tiểu Chủng kinh lược tướng công.

Cuộc đời

Thuở nhỏ theo Trương Tái, được bổ nhiệm làm Tam ban phụng trực (tòng cửu phẩm quan võ). Ông nhiều lần đảm nhiệm thôi quan Thành Châu, Hi Châu, thông phán Nguyên Châu. Những năm đầu Sùng Ninh thời Tống Huy Tông, vì vướng vào "để vu tiên chính" gian đảng, phải nghỉ ở nhà nhàn rỗi gần 10 năm. Những năm cuối Đại Quan thời Huy Tông, được phong Vũ công đại phu (quan võ cấp 15, chính thất phẩm), thứ sử Trung Châu (thứ sử Diêu quận), Kính Nguyên lộ Đô linh hạt, tri Hoài Đức quân. Sau chuyển đảm nhiệm trị An Tây Châu sự, không lâu sau, lại chuyển làm tri Vị Châu sự, Thiên long thần vệ tứ sương đô chỉ huy sứ (chức quan trong cấm quân, tòng ngũ phẩm), Phòng ngự sứ Minh Châu (tòng ngũ phẩm). Sau soái quân Thiểm Tây, Hà Đông đánh thành Tang Để, trong vòng 8 ngày hạ được thành. Được thăng chức Thị vệ thân quân Mã quân Phó Đô chỉ huy sứ (chính ngũ phẩm), Thừa tuyên sứ Ứng Đạo quân (chính tứ phẩm). Sau làm Đô thống chế (chức quan trong quận đội), nhận chức Tiết độ sứ Bảo Tĩnh quân, theo Đồng Quán đánh Yến Kinh, vì hiến kế mà không được dùng, lấy chức Hữu vệ tướng quân (tòng tứ phẩm) mà về trí sĩ. Đồng Quán lấy Lưu Duyên khánh thay thế, Diên Khánh bại, ông lại được dùng làm thứ sử Hiến Châu, tri Hoàn Châu. Chẳng lâu sau được phục chức Tiết độ sứ Bảo Tĩnh quân.