Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tuệ Tĩnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 4:
:''Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm giang''
==Tiểu sử==
Tuệ Tĩnh vốnnguyên danhtên là '''Nguyễn Bá Tĩnh''' (阮伯靜), tự '''Linh Đàm''' (靈潭), hiệu '''Tráng Tử Vô Dật''' (壯子無逸), '''Hồng Nghĩa''' (紅義), quán tại hương Xưa, tổng [[Văn Thai]], huyện [[Cẩm Giàng]], phủ [[Thượng Hồng]] (nay là thôn [[Nghĩa Phú]], xã [[Cẩm Vũ]], huyện [[Cẩm Giàng]], tỉnh [[Hải Dương]]).
 
Mồ côi cha mẹ từ lúc 6 tuổi, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy nuôi cho ăn học. Năm 22 tuổi, ông đậu Thái học sinh dưới triều vua [[Trần Dụ Tông]], nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Những ngày đi tu cũng là những ngày ông chuyên học thuốc, làm thuốc, chữa bệnh cứu người.
Dòng 13:
 
Năm 1690 tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang Trung Hoa, tình cờ thấy mộ Tuệ Tĩnh, nhận ra là người cùng làng. Cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của vị danh y, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê Hải Dương bây giờ.
 
==Công trình y dược==
Những năm ở trong nước, Tuệ Tĩnh đã chăm chú nghề thuốc: trồng cây thuốc, sưu tầm kinh nghiệm chữa bệnh trong dân gian, huấn luyện y học cho các tăng đồ. Ông đã tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ sách giá trị là bộ ''Nam dược thần hiệu'' chia làm 10 khoa. Đặc biệt, ông có bộ ''Hồng Nghĩa giác tư y thư'' (2 quyển) biên soạn bằng [[chữ Nôm|quốc âm]], trong đó có bản thảo 500 vị thuốc nam, viết bằng thơ Nôm Đường luật, và bài "Phú thuốc Nam" 630 vị cũng bằng chữ Nôm. Thơ văn Nôm đời Trần rất hiếm, nếu quả thực đó là tác phẩm của Tuệ Tĩnh thì chúng không chỉ giá trị trong y học mà còn là tác phẩm quan trọng trong lịch sử văn học bởi vì đây là các tác phẩm ở thời kì đầu của văn học chữ Nôm.